Documente Academic
Documente Profesional
Documente Cultură
TỰA
Quyển sách này viết lại phần nòng cốt của một giáo trình gồm những bài
thuyết giảng trong hai học kỳ Xuân Hè 1954 tại St.Andrews College. Dự
thính các bài thuyết giảng này là sinh viên thần học thuộc Tổng giáo hội
(Congregational), Giáo hội Giám lý (Methodist), và Trưởng lão
(Presbyterian), mà theo yêu cầu của họ, quyển sách này đã được chuẩn bị để
cho ấn hành. Trong khi mô hình tổng quát của giáo trình vẫn được giữ lại, số
tài liệu nguyên thuỷ của các bài thuyết giảng đã được bổ sung và toàn thể đã
được viết lại và mở rộng thêm.
Ý hướng của quyển sách này không phải là một công trình nghiên cứu bao
quát, nhưng đúng hơn là một dẫn nhập cho đề tài và là một sách chỉ dẫn thực
tiễn cho vị mục sư hướng dẫn sự thờ phượng. Phương pháp tiếp cận có tính
cách thần học và lịch sử, nhưng tôi đã cố gắng từ đầu chí cuối để liên kết cả
thần học lẫn sử ký vào với cách hành đạo hiện nay. Điều quá thường xảy ra
là cách sắp xếp thì giờ thờ phượng vốn do các vấn đề thiết thực quyết định,
thay vì phải tham khảo các nguyên tắc đầu tiên. Như tôi đã cố gắng vạch rõ,
có một nền thần học về sự thờ phượng với những hàm ý thực tiễn trong các
vấn đề như cách cấu trúc một buổi nhóm thờ phượng, vai trò của các bài học
Thánh Kinh các bài thi thiên và thánh ca, cách sắp xếp thì giờ cầu nguyện
công cộng, và việc cử hành các thánh lễ. Phần hướng dẫn các sách đọc thêm
sẽ được tìm thấy trong các chú thích và thư mục tham khảo.
Một bố cục như thế này cũng có thể có giá trị trong việc kích thích một cuộc
thảo luận về vấn đề tụng niệm (litengical discussion), nhất là bên trong các
Giáo hội tự do (Free Churchs), vốn quan tâm trước nhất đến việc thờ
phượng. Việc cũng đến với phong trào Thống nhất các Giáo hội (Cơ-đốc)
với nhiều truyền thống tụng niệm khác nhau rộng lớn đã khiến cho sự cần
thiết của một cuộc thảo luận như thế trở thành cấp bách. Như Bản Tường
Trình của Uỷ ban về Đạo và Trật tự về các Phương pháp Thờ phượng (The
Report of the Faith and Order Commission on Ways of Warship) vạch rõ
“Trong việc thờ phượng chúng ta gặp vấn đề này, hay đúng hơn là tội chia rẽ
của Hội thánh trong phần hình thức rõ rệt nhất của nó (trang 23), và “Về lâu
về dài, chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng nếu căn cứ theo các định chuẩn của
Tân ước và Hội thánh nguyên thuỷ, thì chẳng có cách thờ phượng
thôngthường nào của chúng ta là hoàn toàn đầy đủ cả” (trang 21). Tuy quyển
sách này đã được viết theo quan điểm của một tín đồ của Hội thánh Tự do,
chúng tôi mong là nó có thể có ích và gí trị cho các thành viên của nhiều
cộng đồng tương giao khác, và đóng góp một phần thông hiểu nhau đầy đủ
hơn giữa các Cơ-đốc nhân có những truyền thông tụng niệm khác nhau.
Tôi xin nhận cơ hội này để ghi hận món nợ sâu xa của tôi đối với thân phụ
tôi, là Mục sư Herbert W.Abba, mà suốt thời gian thi hành chức vụ lâu dài
và khả kính là bốn mươi lăm năm tại Tổng Giáo hội Latimer, Berverley, lần
đầu tiên tôi được từng trải thực tại của sự thờ thượng “đúng cách, với lòng
chân thành, do Thánh Linh hướng dẫn” (bản dịch diễn ý; theo bản dịch Anh
văn là: trong tâm (Thánh) linh và trong chân lý). Những chương sách này
mang nợ rất nhiều đối với cách giảng dạy khôn ngoan và từng trải phong
phú của ông. Tôi cũng mang nợ người bạn thân của tôi, là Mục sư
C.Maitland Elliss ở Narromine, New South Wales, đã cùng chia xẻ thật thoải
mái với tôi nhân nhiều cơ hội, phần kiến tức bách khoa của ông về các
nguyên tắc tụng niệm và hành đạo.
Tôi đặc biệt tri ân bạn đồng liêu trước đây của tôi là Chấp sự trưởng D.E.W.
Harrison ơ3 Sheffield về mối quan tâm khiến ông đọc và phê bình bản thảo
của tôi và về những gợi ý và lời khuyên rất bổ ích, cũng xin tri ân Mục sư
Giáo sư W.D. Maxwell, người đã hết sức vui lòng đọc quyển sách này sau
khi được đánh máy vào đêm trước ngày ông từ giã để đến Grahamstwon,
Nam Phi, và đã đưa ra nhiều bình luận có giá trị. Tôi xin tri ân ban Giám đốc
nhà xuất bản Đại học đường Oxford về tính chính xác tỉ mỉ và sự giúp đỡ
không đơn sai trong việc in ấn và phát hành quyển sách naỳ; xin tri ân Mục
sư E.T. Donald James ở Wolverhampton về việc đã được phép sử dụng rộng
rãi thư viện của ông; và xin tri ân nhà tôi về nhiều trợ lực có giá trị và phần
phê bình xây dựng, cũng không quên việc nhà tôi đã sẵn lòng đọc và sửa các
bản in thử.
RAYMOND ABBA
WOLVERHAMPTON Tháng Tư, 1957
Calvin nói: “Nếu trong việc chuyển đổi, một hình thức nào đó phải được
luôn luôn giữ nguyên mà nghi lễ công cộng và do đó là tính nhân bản tự nó
đòi hỏi chúng ta không thể bỏ qua, thì điều đó phải được đặc biệt tuân thủ
trong các Hội thánh”. Sở dĩ việc thờ phượng đòi hỏi phải có một số hình
thức, vì đây là một hoạt động tập thể, mà những hành động tập thể thì tự bản
tính, vốn đặt ra nhiều hạn chế đối với quyền tự do cá nhân. Nếu mọi người
muốn cùng ca hát, nô đùa hay khiêu vũ với nhau, thì phải có một phương
thức được nhất trí nào đó để mọi người cũng tham gia; quyền tự do cá nhân
không bị hạn chế chỉ có thể dẫn tới hậu quả là sự lộn xộn mà thôi”. Ý kiến
chung của một xã hội đòi hỏi một công thức để biểu hiện tư tưởng chung của
nó (J.E.Rattenburg, vital Elements of Public Worship, p.12). Điều này
nghiệm đúng với mọi hình thức thờ phượng lập thể, cả đến loại có tính cách
cá nhân chủ nghĩa nhất như trong một cuộc họp của Hiệp hội các Thân Hữu
(Society of Friends). Sự kiện các hân Hữu họp nhau tại một nơi nào đó vào
một giờ nhất định nào đó và tuân thủ cùng một phương thức được nhất trí
với nhau, tức là giữ im lặng, tự nó cũng là một “hình thức” theo đó sự thờ
phượng của họ được biểu hiện. Do đó, suy cho cùng thì vấn đề không phãi là
sẽ có hình thức hay không, nhưng là các hình thức ấy phải thuộc loại nào.
Cách biểu hiện việc cầu nguyện công cộng chỉ có thể được thảo luận cho có
lợi, là trên bối cảnh tổng quát này. Phản đề về tụng niệm chống lại cầu
nguyện tự do không phải là phản đề vẽ một hình thức chống lại cái không
hình thức; lời cầu nguyện hồn nhiên tự phát nhất cũng là một hình thức (cầu
nguyện) chẳng kém chi việc tụng niệm cổ điển. Vấn đề là về những hình
thức tốt, xấu, hay, dở mà thôi. Câu hỏi mà các tín đồ Giáo hội Tự do, là
những người đã phải trả giá đắt cho quyền tự do tụng niệm vẫn không tài
nào né tránh được, đó là: Có những hình thức nào là đầy đủ nhất để biểu
hiện cách đáp ứng sinh động của Hội thánh đang thờ phượng này - tức là sự
thờ phượng tập thể?
Có hai nhận xét sơ khởi mà chúng ta cần lưu ý trong giai đoạn này. Một là,
truyền thống Thanh giáo là lập trường của các tín đồ Báp-tít, Tổng hội và
Trưởng lão, khi được khảo xét như một toàn thể, vốn không hề phó mặc
những người thừa kế mình cho bất kỳ một hình tức cầu nguyện nào. Ngay
trong chính Thanh giáo, chúng ta cũng tìm ra một số điểm nhấn mạnh trên
việc tụng niệm, có thể xếp từ loại triệt để khước từ mọi hình thức có sẵn, kể
cả bài cầu nguyện của Chúa, đến nỗ lực hồi năm 1584 nhằm thay thế “A
Book of the Forme of Common Prayers” (Một sách về hình thức của những
bài cầu nguyện chung) bằng quyển “Sách cầu nguyện của Giáo hội Anh
quốc” (the Anglican Prayer Book) để dùng làm hình thức thống nhất cho
việc tụng niệm trong xứ. (Xem Bancroft, Dangerous Positions (1595), III,
X.96f., và Hooker, Eccl.Pol., V, XXVii. Sách này được biết dưới cái tên là
Walfegrave Liturgry). Các tín đồ Thanh giáo ôn hoà thì không phản đối
nguyên tắc về tụng niệm, mà chỉ chống lại một bài tụng niệm cá biệt, là sách
cầu nguyện phổ cập (the Book of Common Prayer) mà thôi; không phải họ
phản đối các hình thức vì đó là những hình thức, mà chỉ phản đối “các hình
thức quá hạn hẹp” của quyển sách cầu nguyện ấy mà thôi. Điều này được
thấy hết sức hiển nhiên căn cứ vào sự hiện hữu của các quyển Genevan
Service Book của Knox (1556), quyển The Waldegrave Liturgy (1584),
quyển The Middle burgh Liturgy (1586) quyển The Westminster Directory
(1644) và quyển Baxter's Savoy Liturgy (1661). Mặt khác, ngay đến các tín
đồ trưởng lão vốn thiên mạnh mẽ nhất về hướng một hình thức cầu nguyện
nhất định, vẫn nhấn mạnh rằng tụng niệm không thể loại trừ việc thực thi ân
tứ cầu nguyện một cách hồn nhiên, “tuỳ hứng” (Có những ngoại lệ chống lại
sách cầu nguyện phổ cập đã được trình lên cho các Giám mục tại Giáo hội
nghị Savoy, năm 1551. Xem Bayne, Puritan Documents, tr.114 và tt.). Việc
sách Westminster Directory của năm 1644 đưa ra cả những bài tụng niệm
lẫn những bài cầu nguyện tự do thiết tưởng đã là chứng cứ đầy đủ cho truyền
thống bao biện của Thanh giáo.
Hai là, quyền tự do tụng niệm mà các tín đồ Giáo hội Tự do lấy làm tự hào
một cách phải lẽ, là một quyền tự do tích cực chứ không phải chỉ là tiêu cực
mà thôi. Đây không phải chỉ là quyền tự do khỏi những cặp còng của Sách
cầu nguyện phổ cập cũng không phải chỉ là quyền tự do để thực thi ân tứ cầu
nguyện tự phát, tuỳ hứng; nó còn là quyền tự do để tận dụng bất cứ gì đưa
chúng ta tới được chỗ tiếp thu phần di sản về tụng niệm phong phú của toàn
thể Hội thánh để làm của riêng. Nếu muốn, chúng ta sẽ được tự do chọn lựa,
dưới quyền hướng dan của Đức Thánh Linh, từ mọi truyền thống tụng niệm
của Cơ-đốc giáo. Mọi sự đều thuộc về chúng ta.
Bây giờ, cả hai thể thức thờ phượng cổ điển đều đòi hỏi chúng ta phải chú ý.
Chúng ta sẽ nhìn qua chúng thật nhanh, và cố gắng thẩm định các ưu khuyết
điểm tương ứng với việc tụng niệm và cầu nguyện tự do.
1. Cầu nguyện bằng tụng niệm: Một trong những lợi điểm rõ ràng nhất của
việc tụng niệm là nó cứu hội chúng khỏi bị vụ mục sư mặc tình đưa đẩy đi
đâu tuỳ thích. Nội dung của bài cầu nguyện và thế cân bằng của buổi nhóm
thờ phượng không hề bị ảnh hưởng của tâm trạng hoặc tính khí của người
hướng dẫn. Như thế, sự thờ phượng được lợi về phương diện khách quan và
ổn định. Phẩm giá và trật tự cũng được bảo đảm. Tính cách phổ thông
(catholicity) cũng thế; việc tụng niệm kết hợp hội chúng đang thờ phượng
với các tín hữu của quá khứ; nó trân trọng bảo tồn từng trải của nhiều thế hệ
Cơ-đốc nhân, được thể hiện bằng “sự khôn ngoan và vẻ đẹp đã được tích luỹ
của Cơ-đốc giáo, những điều tuyệt vời của các thánh đồ đã được chất chứa
vào kho (P.Dearmer, được K.L.Parry trích dẫn trong chương “Prayer and
Praise” của quyển Christian Worship (ed. N.Micklem) tr.234). Hơn nữa, một
bài cầu nguyện ngắn tuỳ cơ hội cổ điển (a classic Collect) chẳng hạn, “kết
hợp của tập thể và của cá nhân, theo cách thức mà có lẽ chỉ có việc sử dụng
lâu đời mới có thể làm được (K.L.Parry, Sđd., tr.234). Một ưu điểm nổi bật
khác nữa của những bài tụng niệm cổ xưa, điều mà các tí đồ của Giáo hội Tự
do quá thường bỏ qua nhưng đã được nhấn mạnh trong Bản Tường trình của
Uỷ ban nghiên cứu về Đạo và trật tự, quyển Ways of Worship, là: “Các hình
thức truyền thống về tụng niệm đều hoàn toàn đúng theo Kinh điển, cả về
mặt tinh thần lẫn trong cách chọn lời lẽ” (p.18, section A). Lại nữa như
F.H.Brabant đã vạch rõ, một bài tụng niệm cổ điển có chức năng tạo ấn
tượng hay gợi ý: không những nó “chỉ diễn tả điều ta cảm thấy; mà còn dạy
cho chúng ta cách chúng ta phải cảm thấy nữa'” (Worship in general trong
Liturgy of Worship (ed. Clarke and Harris), p.13).
Chỗ khiếm khuyết của một hình thức cố định nào đó của những bài cầu
nguyện cũng rất rõ ràng. Nếu mọi sự đều đã được quy định cứng nhắc cả rồi,
thì còn chỗ nào cho những thôi thúc hồn nhiên tự phát của Đức Thánh Linh
nữa? Đây chính là cơ sở thật sự của lời phản đối của các tín đồ Thanh giáo
cống việc áp đặt một lối tụng niệm thiếu uyển chuyển. Viện dẫn RoRm 8:26
họ chủ trương rằng chịu nô lệ một vài hình thức cố định nào đó, tức là dập
tắt Thánh Linh. (Xem John Owen, A Discourse of the Work, of the Holy
Spirit in Prayer; Works (ed. Russell0, iv.92). Như thế, cả vị mục sư lẫn các
tín đồ đều bị cướp mất ân tứ cầu nguyện đã được Đức Thánh Linh ban cho.
Các mục sư bị trục xuất hồi năm 1662 nói: “Chúng tôi không tin rằng mình
phải luôn luôn phục tùng một hình tức cầu nguyện bóp chẹt ân tứ cầu
nguyện (mà chúng tôi hy vọng là) đã được ban cho vài người trong chúng
tôi, hay làm giảm sức nóng và lòng nhiệt thành của chúngtôi trong sự cầu
nguyện, hoặc các thương cảm của những người được nghe chúng tôi (cầu
nguyện), là hợp pháp (A Sober and Temperatate Discourse converning The
Interest of Words in Prayer by H.D.M.A. (London 1661), p.96. T/c John
Owen, A Discourse Concerning of Liturgies and their Imposition (1662),
Works (ed. Goold, Edinburg 1862), XV.52). Hơn nữa, một hình thức cố
định, cho dù có bao biện và tổng quát đến đâu đi chăng nữa, cũng thiếu tính
cá biệt; nó chẳng liên quan gì với các nhu cầu khác nhau của những người
khác nhau. Vì lý do ấy mà Isaac Watts, vốn từa nhận giá trĩ của cá chình tức
định sẵn, cũng từ chối không chịu bám chặt vào một hình thức cầu nguyện
nào đã được quy định sẵn cả:
Vì ta không thể nào soạn thảo được những hình thức cầu nguyện hoàn toàn
thích ứng với mọi hoàn cảnh liên hệ đến mọi sự việc của đời này và đời hầu
đến. Các hoàn cảnh của chúng ta vốn luôn luôn đổi thay trong tình hình
mong manh và biến chuyển này. Chúng ta có nhiều tội mới để xưng ra,
nhiều cám dỗ và sầu muộn mới để trình dâng lên, nhiều nhu cầu mới cần
được đáp ứng. Mỗi biến đổi của quyền năng thần hựu trong các công việc
của một quốc gia, một gia đình hay một người đều đòi hỏi phải có những lời
khẩn xin và những nhận định phù hợp và tất cả những điều đó chẳng bao giờ
có thể được cung cấp trong bất kỳ một tác phẩm đã được ấn định sẵn nào
(Guide to prayer; Works, iv.127).
Một khuyết điểm khác nữa của bàit ụng niệm, là nó có xu hướng trở thành
nhạt nhẽo, cổ lổ do cứ đọc đi lại quá nhiều lần, do đó, có thể dẫn tới thói đạo
đức giả, khiến những người thờ phựng nói lên những điều mà họ không thật
sự cảm thức (xem Isaac Watts, Sđd.).
2. Cầu nguyện tự do: tránh được các hầm hố cá biệt vừa kể trên. Nó có ưu
điểm của sự hồn nhiên tự phát; vị mục sư được hoàn toàn tự do đáp lại các
cảm thức của Thánh Linh khi cảm thấy được hướng dẫn nói ra. Xuất phát từ
trường hợp như thế (hay đáng lễ phải là như thế), tức là từ mối liên hệ mục
vụ mật thiết của vị mục sư với các tín đồ của mình, nó có liên hệ với các
hoàn cảnh và nhu cầu cá biệt của những người cầu nguyện. “Trong một câu
đáng ghi nhớ, Owen đề cập 'một hiệu quả vang dội, là hậu quả của những lời
cầu nguyện tự nhiên tự phát của những vuị mục sư đã thật lòng suy nghĩ, về
ân phúc và vẻ uy nghiêm của Thượng Đế và các nhu cầu của hội chúng của
mình” (Horton Davies, The Worship of the English Puritans, p.16. Câu trích
dẫn là trong A Discourse of the Work of the Holy Spirit in Prayer; Work (ed.
Russell), iv.92). Một lần nữa, cầu nguyện tự do giúp vị mục sư tập họp lại
rồi diễn tả các cảm thức của tín đồ mình nhân những cơ hội hiếm hoi, khi
ông ý thức bằng trực giác vào một giai đoạn cá biệt nào đó trong chức vụ
của mình. Như thế, nó kết hợp hội chúng với sự thờ phượng tự do bằng ân tứ
của Hội thánh thời các sứ đồ.
Nhưng cầu nguyện tự do cũng có nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Quý vị
mục sư hay thay đổi; và thật là dễ dàng và nguy hiểm nếu một vị mục sư, do
khong nhận thức được việc mình đang làm, lại gán tâm tư ý tưởng của riêng
mình cho hội chúng qua những lời cầu ngyện của mình. Nếu là trường hợp
nhẹ nhất, điều này có thể dẫn tới hậu quả là thiếu khách quan tính trong buổi
nhóm thờ phượng, nếu tồi tệ hơn, nó có thể hoàn toàn làm hỏng việc thờ
phượng. Cầu nguyện tự do cũng có thể tước đoạt mất khách quan tính của sự
thờ phượng bằng tính cách dạy dỗ quá đáng. Lắm khi nó được dâng lên cho
Thượng Đế; nhưng sự thật là nó cũng có thể được ngõ với hội chúng. Nó có
thể quan tâm nhiều vào sự gây dựng hơn là việc tôn thờ Thượng Đế. Nhiều
vào sự gây dựng hơn là việc tôn thờ Thượng Đế. Một khuyết điểm tiềm tàng
khác nữa là thiếu phẩm giá và trật tự. Hooker, khi trách cứ các tín đồ Thanh
giáo, than phiền “những biến dạng gây khó chịu, bởi đó bằng những Bài cầu
nguyện dài vô tận và vô nghĩa thao thao bất tuyệt khó “tiêu hoá” hổi, họ
thường tỏ ra vô duyên trong cách làm rất khó chịu ở những phần xứng đáng
nhất của bổn phận các Cơ-đốc nhân đối với Thượng Đế, do đó, phải chịu
tình trạngthiếu trật tự chắc chắn, mà cứ cầu nguyện cả theo cách nào và như
thế nào tuỳ thích (Eccl.Pol., V.XXV, 5). Có lẽ đây chỉ là một nét ký hoạ mà
thôi, nhưng cũng như mọi ký hoạ trào phúng, nó vốn có cơ sở là một sự kiện
có thật. Âm hiệu về cái chung (catholicity) cũng có thể bị thiếu mất trong bài
cầu nguyện tự do, tuy nó không cần phải là như thế. Nhưng chính những
mối bận tâm của nó đối với các tình hình địa phương và các nhu cầu hiện tại
có thể đưa tới hậu quả là nó chẳng liên quan gì đến những lời chứng rộng
lớn hơn và trong đời sống quá khứ của Hội thánh. Jeremy Taylor còn chỉ vào
khuyết điểm khác nữa, một liên quan với vị mục sư, và một với hội chúng.
Ông tố cáo quý vị mục sư là việc lẽ Đức Thánh Linh để che giấu sự biếng
nhác tâm lý, và hỏi: “Cầu nguyện với Thượng Đế bằng thái độ có suy xét
hay thiếu suy xét, thì đàng nào là tốt hơn? Người có suy nghĩ, và cố ý nói ra
những gì mình nói, hay người chỉ nói ra thật nhanh những gì vừa đến với
tâm trí mình? (Two Discourse (London 1682), p.1). Ông cho rằng các hội
chúng bị che giấu trong lúc họ thành tâm hướng về Thượng Đế “vì họ không
dám nói A-men trước khi có thể suy xét cẩn thận; nhưng trong nhiều trường
hợp có những cầu nguyện tự nhiên tự phát cần phải được suy xét thật kỹ
trước khi chúng ta có thể chấp nhận chúng (Được Horton Davies trích dẫn
trong Sđd, tr.109). Cuối cùng, không phải là người ta không biết có bài
nguyện chỉ có tên là tự do mà thôi, chứ thật ra đó là một hình thức đã có sẵn,
và “cứ về phương diện nội dung mà xét, thì nó còn hình thức hơn cả nghi lễ
tụng niệm thông thường nữa”. (J.H.Miller, The Practice of Public Prayer,
được J.E.Rattenbury trích dẫn, Sđd. tr.81). Nếu không được suy nghĩ thấu
đáo và chuẩn bị cẩn thận, nó quá thường có xu hướng bị biến thành những
câu sáo rỗng và những khuôn đúc; do đó, có hững khuyết điểm của một hình
thức định sẵn nhưng lại không có điều cần thiết là đặc tính theo Kinh điển
của những bài tụng niệm theo truyền thống.
Rõ ràng là chẳng có một kiểu thức nào trong việc thờ phượng công cộng, tự
nó là trọn vẹn cả, một sự kiện mà những người thủ vai chính - hay một phần
lớn những người như thế - của thế kỷ thứ mười bảy dường như đều không
nhìn thấy khiến chúng ta rất ngạc nhiên. “Nếu tín đồ Anh quốc giáo thiếu
tính cách hồn nhiên tự phát, đơn sơ, thân mật và sự thuần khiết của lời cầu
nguyện tự do, thì tín đồ Thanh giáo cũng bỏ qua tính cách đồng nhất, phẩm
giá, phổ quát (catholicity) và trật tự của sách Cầu nguyện phổ cập (Horton
Davies, Sđd., tr.110). Mỗi bên đều có những ưu điểm riêng; nhưng chẳng có
bên nào là không có khuyết điểm. Hơn nữa, như Horton Davies chỉ rõ, “cả
hai loại cầu nguyện khác nhau đó, bằng tụng niệm và tự do, dường như đều
phản ảnh...hai quan niệm khác nhau của Hội thánh. Loại trước nhấn mạnh
bản tính tập thể của Hội thánh trong việc “Cầu nguyện Chung” loại sau nhấn
mạnh nhu cầu của các cá nhân trong gia đình Hội thánh. Nếu cầu nguyện
bằng cách tụng niệm phản ảnh đầy đủ điều đã được các bài Tín điều các bài
xưng nhận Đức tin tổng quát, các bài cầu nguyện ngắn tuỳ cơ hội (collects),
những bài cầu nguyện cầu xin các ân phúc trừu tượng mà toàn thể các Cơ-
đốc nhân có thể cầu xin đều chủ trương, thì cầu nguyện tự do đáp ứng được
các đòi hỏi cá nhân cá biệt (Sđd., tr.105). Điều mà ít ra cũng có một số thành
viên cực đoan hơn của cả hai phe đều dường như không nhận thức được, đó
là chúng không hề loại trừ lẫn nhau. Phần này chỉ bổ sung cho phần kia, và
cầu nguyện tập thể sẽ được biểu hiện tốt nhất là bằng cách pha lẫn có cân
nhắc cả hai. Như uỷ ban về Đạo và Trật tự nhận định, “vấn đề thực tiễn là
quyết định chỗ thích hợp cho từng phần (Ways of Worship, p.28).
Phần lớn lệ thuộc vào loại Hội thánh được đề cập. Trong khi quả thật “các
quan niệm khác nhau về thờ phượng vốn bắt nguồn... một phần rất lớn từ các
chủ trương về cách trang trí và sắp xếp trật tự trong nhà thờ (ecclesiologies)
khác nhau” (Horton Davies, Sđd., tr.105) hai quan niệm này trong Hội thánh
đều không có hàm ý muốn không chịu sống chung với nhau, mà muốn bổ
túc cho nhau; nhưng điểm nhấn mạnh sẽ rất khác nhau tại nhiều điểm. Nếu
một Hội thánh phục vụ một cộng đồng lớn thì Hội thánh ấy cần có một hình
thức thờ phượng bằng sự tụng niệm theo hình thức, trong đó cầu nguyện tự
do tương đối có vai trò nhỏ bé; còn trong một buổi nhóm giao hảo (thông
công) thân tình hơn, nơi có một mối liên hệ mục vụ mật thiết hơn giữa vị
mục sư và các tín đồ, thì sự thờ phượng rất có thể là ít có phần tụng niệm
hơn, và cầu nguyện tự do được một vai trò to lớn hơn (Nguyên tắc này nhấn
mạnh tập quán của John Wesley “Tuy ông tin vào cách cầu nguyện tự nhiên
tự phát, miển là nó ngắn gọn, Wesley tin rằng sự thờ phượng bình thường
của dân chúng sẽ được biểu hiện tốt hơn bằng các hình thức tụng niệm”. Với
Wesley thờ phượng bình thường có nghĩa là sự giao hảo (thông công) trong
giáo xứ. Trong giới những tín đồ Giám lý thân thiết với nhau hơn, việc cầu
nguyện tự nhiên tự phát được sử dụng, nhưng theo Wesley thì điều này giả
định trước đã có một bối cảnh tụng niệm của Hội thánh được tổ chức gồm
nhiều giáo xứ (Parish Church) rồi. Những buổi hợp tĩnh tâm (devotions)
trong các giới ít người vốn có hàm ý bổ sung cho sự thờ phượng của cả Giáo
xứ. Với Đoàn truyền đạo lưu hành tại Hoa-kỳ của ông, nơi không có một bối
cảnh như thế, thì hồi năm 1784 Wesley có soạn thảo “một bài tụng niệm hơi
khác với bài tụng niệm của Giáo hội Anh quốc để xử dụng trong Ngày của
Chúa trong tất cả các hội chúng” Xem Rattenbury, Sđd., tt.80-81)
Cầu nguyện tự do không nhất thiết phải là cầu nguyện tự nhiên tự phát,
nghĩa là nảy sinh một cách hồn nhiên, không có suy tính trước, trực tiếp từ
cơ hội (extempore) đang có. Nó cũng rất có thể có nghĩa như điều mà Isaac
Watts gọi là “cầu nguyện được thai nghén”, nghĩa là bài cầu nguyện đã được
vị mục sư chuẩn bị trước thật cẩn thận. Nếu quả thật nó đã không được viết
trước ra giấy, thì nội dung và tính cách liên tục của một bài cầu nguyện như
thế cũng rõ ràng là đã được tác tạo trong tâm trí vị mục sư. Đó là loại cầu
nguyện tự do đã được Mathew Henry và Isaac Watts, là những người từng
phê bình những lạm dụng sự cầu nguyện tự nhiên tự phát như Jeremy Taylor
và Hooker, bênh vực. Mathew Henry chủ trương rằng đòi hỏi tiên quyết của
việc thi hành nhiệm vụ trang trọng, là một phương pháp thích đáng nào đó
phải được tu6n thủ, chẳng những gì nói ra đều phải tốt lành, mà chúng còn
phải được nói ra. đúng lúc đúng nơi, và không phải là chúng ta dâng lên cho
Đấng uy nghiêm quang vinh của Thiên đàng và Địa cầu một điều gì đó lộn
xộn, xấc xược và vô nghĩa lý (A Method of Prayer) London 1710), p.Au
recto.)
Cũng tương tự như thế, trong tác phẩm đã trở thành sách giáo khoa của mình
(1766) Isaac Watts là quyển Guide to Prayer cảnh cáo chống lại “việc hoàn
toàn lệ thuộc vào các chuyển động và gợi ý thình lình của tư tưởng (Works,
iv.125). Như một quy luật chung, cầu nguyện tự do khi thờ phượng phải
được “thai nghén” chứ không phải là “tuỳ hứng”
VIỆC CA NGỢI TÁN TỤNG TRONG NHÀ THỜ
I. ÂM NHẠC VÀ SỰ THỜ PHƯỢNG
Gần một ngàn sáu trăm năm trước đây, một buổi lễ báp-tem đáng ghi nhớ đã
được cử hành trong một ngôi thánh đường tại Milan. Một trong số những
người nhận phép báp-tem là một cựu giáo sư hùng biện St.Augustine. Điều
rất có ý nghĩa, ấy là nét đặc trưng của buổi lễ ấy, điều đặc biệt vẫn nhắc nhở
chúng ta, ấy là ấn tượng cảm xúc cao độ được tạo ra cả trên bản thân ông lẫn
trên hội chúng bằng việc hát lên nhiều bài thánh ca - một tập quán chỉ mới
được giám mục St.Ambrose đưa vào gần đây thôi! (Confessions, IX,7).
Từng trải của St.Augustine trong ngày đó, cũng là từng trải của các nam nữ
Cơ-đốc nhân qua nhiều thế kỷ. Cùng với ông, họ đã nhận thấy rằng trong lúc
các giọng ca tràn vào tai họ, thì chân lý cũng ngấm vào tim họ. Điều mà
Keats gọi là “ngôn ngữ vàng của âm nhạc” đã nói cho họ những điều sâu
nhiệm của Thượng Đế vốn không thể nói được bằng lời lẽ thông thường
Kingsley nói: “Lời lẽ được nói cho tư tưởng chúng ta, nhưng âm nhạc nói
với chính trái tim và gốc rễ của linh hồn chúng ta”.
Âm nhạc, với cương vị “nữ tì của tôn giáo”, có vai trò song phương trong sự
thờ phượng công cộng. Thứ nhất, âm nhạc loại đứng đắn trong nhà thờ có
thể phục vụ cho một chủ đích quan trọng, tuy là thứ yếu, của một phụ tá cho
việc thờ phượng F.H.Brabant nhận định rằng “nếu tất cả chúng ta đều đến
(nhà thờ) với cảm thức và tư tưởng như đáng lẽ phải có, chắc chắn những
buổi thờ phượng của chúng ta sẽ chỉ là cách bộc lộ bằng lời nói và hành
động tình trạng bên trong của linh hồn chúng ta với tất cả những gì là hồn
nhiên của sự bộc trực của trẻ con. Nhưng phần đông chúng ta lại không đến
như thế. Chúng ta đến với nhiều vết bẩn và sự mỏi mệt do một đời sống
phần lớn là không tự nhiên, chỉ trông mong được một điều gì nâng cao mình
lên để đưa vào một bầu không khí của sự bình an thuộc linh”. Do đó, “sự thờ
phượng không những chỉ có một chức năng bộc lộ, mà còn có một chức
năng gợi ý hoặc gây ấn tượng nữa” (Liturgy and Worship, p.13). Brabant
đang nói bằng cách đặc biệt đề cập công dụng gây ấn tượng của việc tụng
niệm chẳng những chỉ biểu lộ các cảm thức của người thờ phượng, mà còn
gợi ý cho người ấy về những gì mà người ấy phải cảm thức nữa. Nhưng điều
ông nói còn thể áp dụng theo một nghĩa rộng rãi hơn cho mọi nghệ thuật của
nhà thờ. Kiến trúc gô-tích ánh sáng khuếch tán, kính màn, tất cả đều kết hợp
lại để gợi ý cho chúng ta về những điều thuộc về Đức Thánh Linh; chúng
chuẩn bị cho tâm trí để sẵn sàng thờ phượng. Sự việc cũng nghiệm đúng y
như thế với âm nhạc khí có thể đưa người ta vào nơi kín đáo của Đấng Chí
Cao chẳng kém chi loại âm nhạc lạnh lẽo của vòm gô-tích.
Nếu quả thật khi nhìn thấy nhà thờ York Minster hay Tu viện Westminster,
hay bất luận một nhà thờ đẹp đẽ nào, có thể chuẩn bị cho tâm trí những con
người bình thường để họ sẵn sàng thờ phượng khi họ ngồi trong gian giữa
của nhà thờ và nhìn quanh mình, thì âm thanh của Điệp khúc Ha-lê-lu-gia,
hay của bản 'St.Anne' hoặc bất kỳ một bài thánh ca đẹp đẽ nào khác chắc
chắn cũng có thể làm y như thế thậm chí có lẽ còn khiến người ta càng cảm
động nhiều hơn nữa là khác. Quả thật là một khung cửa sổ mở về hướng
Đông đầy ngập ánh sáng và gợi lên truyện tích của Cơ-đốc giáo có thể giúp
những người nam, người nữ và trẻ con tập trung vào câu chuyện và nhận
thức càng sinh động hơn thì âm nhạc đau thương của Bach hay bản “các sứ
đồ” của Elgar cũng có thể làm giống như thế. Người thờ phượng chẳng có
vai trò riêng biệt nào trong điều đặp đẽ đã được thấy và nghe, ngoại trừ là
tiếp nhận thấy và nghe với lòng tôn kính những gì đã được dâng lên trong
phần trợ cụ để tỏ lòng tôn kính (Walford Davies and Harvey Grace, Music
and Worship, p.24). Do đó mà có tiếng gọi cao cả của các hạc sĩ của nhà thờ.
Người đánh phong cầm cho ban đồng ca được giao trách nhiệm cung cấp âm
nhạc làm trung gian để qua đó thế giới thuộc linh được đưa đến gần. Sự
đóng góp của họ cũng có thật như vòm cửa của ngôi thánh đường hoặc
khung cửa sổ mở về hướng Đông. Họ phải lao động khổ nhọc để hoàn thiện
nó với sự chăm chỉ chẳng kém chi người kiến trúc sư, người họa sĩ và nhà
điêu khắc. họ phải tìm cách để qua “vẻ đẹp toàn diện” nói lên được thực tại
của Vẻ đẹp của sự thánh khiết.
Có một mối nguy hiểm tế nhị vẫn vây quanh các nhạc sĩ; không phải là
những nhạc sĩ nhu nhược hay vô tâm, nhưng là các nhạc sĩ thận trọng và
chịu khó nhất. Đó là nguy cơ biến âm nhạc thờ phượng thành cứu cánh của
chính nó, thay vì là một phương tiện nhằm vào một cứu cánh quan trọng, vĩ
đại hơn. Làm như thế thì chính việc đáng lẽ phải đưa người ta đến với hiện
diện của Thượng Đế, có thể trở thành một cuộc trình diễn vô ích, khiến tâm
trí họ xa rời Ngài. Điều đáng lẽ phải chỉ cho họ đến với Chân lý tối hậu, lại
cám dỗ họ đến với chính nó và che mắt họ đối với Đấng vốn là Thực tại nhà
đó mà loài người đựơc sống. Có ít người ý thức được nguy cơ này hơn là
St.Augustine. Trong một khúc sách thật cảm động của tác phẩm Confessions
(xưng nhận) của mình, ông đề cập những cám dỗ của thú vui của tai và sự
cám dỗ dành cho âm nhạc một địa vị không thích đáng.
Thế nhưng có nhiều lúc, do quá sợ hãi sự cám dỗ này, tôi đi quanh co theo
hướng nghiêm khắc quá đáng - thậm chí đến độ thỉnh thoảng tôi mong ước
rằng giai điệu cua tất cả các giọng điệu yêu kiều mà người ta dung để hát các
Thi thiên của Đa-vít cần phải bị bài trừ không những khỏi chính đôi tai của
tôi, mà khỏi cả Hội thánh nữa; và đối với tôi thì điều ấy dường như là một
biện pháp an toàn hơn... Thế nhưng khi tôi nhớ lại những giọt lệ mà tôi từng
đổ ra vì cảm động do các bài ca của Hội thánh trong những ngày đầu tiên tôi
mới theo đạo; và một lần nữa khi tôi thấy rằng mình đã cảm động chẳng
những chỉ bằng một giọng trong trẻo và ngân nga phải lẽ - tôi lại nhận thức
được một lần nữa tính cách hữu ích của tập quán này. Như thế, tôi chao đảo
giữa nguy cơ của sự khoan dung và điều lợi ích mà tôi đã tìm thấy: và nói
chung thì tôi có khuynh hướng ... tán thành tập quán ca hát trong Hội thánh,
để nhờ thú vui của lỗ tai, các tâm trí yếu đuối hơn có thể nảy sinh một cảm
thức tận tuỵ dâng hiến. Thế nhưng hễ khi nào tôi tình cờ thấy mình cảm
động bằng bài hát nhiều hơn là do điều được ca hát, thì tôi xin thú nhận là
mình đã phạm tội nghiêm trọng, nên sau đó, tôi mong thà mình đừng được
nghe bài ca ấy còn hơn (X.33 bản dịch của F.J.Sheed). Đây là cơ sở của lời
phản đối của những tín đồ Thanh giáo nhằm loại trừ mọi biểu tượng chủ
nghĩa và việc trang trí khỏi các Nhà thờ theo truyền thống Calvin tại Hoà-
lan, và chấm dứt phần âm nhạc của phong cầm và ca đoàn. Như J.S.Whale
vạch rõ (Xem “Calvin” trong quyển Christian orship ed.N.Micklem tt.161-
165), “điều đó không nhất thiết có nghĩa là không tin cậy vào vẻ đẹp và các
nghệ thuật vì bản thân chúng”, và sự thật là điều có vẻ khắt khe của sự thờ
phượng của Giáo hội theo truyền thống Calvin hồi thế kỷ thứ mười sáu đã
được giảm nhẹ một phần lớn nhờ việc ca hát của cả hội chúng mà Luther và
Calvin đã phục hồi. Sự thật là những thái quá của lễ Mi-sa Công giáo đã
khiến mọi người sợ e ma thuật của vẻ đẹp có thể trở thành lưới bẫy.
Thế thì, chúng ta có nên xoá sạch cái đẹp và các nghệ thuật khỏi việc thờ
phượng hay không? Lạy Trời, xin đừng để cho chuyện đó xảy ra! Tất cả
những gì là tốt lành đều có thể bịlạm dụng; lạm dụng điều tốt nhất để biến
nó thành xấu xa băng hoại, là việc làm tồi tệ nhất. Nhưng như Luther vốn đủ
khôn ngoan để nhấn mạnh rằng lạm dụng không thể biến điều hữu ích trở
thành vô giá trị, nguy cơ này có thể tránh được nếu cứu cánh đích thực của
sự thờ phượng được đề cao - phải phơi bày vẻ uy nghiêm vinh quang và ân
phúc của Thượng Đế. Các tín đồ Thanh giáo không hề thiếu óc thẩm mỹ,
nhp A.L.Drummond đã chứng minh (xem The Church Architecture of
Protestantism, pp.43-45); nếu họ đã thờ phượng trong những vựa lúa, những
nhà kho, thì như Kinh Parry vạch rõ, đó là vì cần thiết phải làm như thế, chứ
không phải do họ tự ý chọn lựa ("Drayer and Praise” trong quyển Christian
Worship, ed. N.Micklem tr. 237). Chính một tín đồ Thanh giáo đã viết:
Nhưng xin đừng bao giờ để cho đôi chân ngay thẳng của tôi sa ngã (mà) để
chúng cứ bước đi (bên trong) vòng rào siêng năng chăm chỉ của các tu viện,
và tình yêu làm chiếc mái nhà cao hình vòng cung, với những cột trụ khổng
lồ kỳ cựu làm chứng cứ, với những cửa sổ nhiều tầng được trang hoàng lộng
lẫy, toả ra một làn ánh sáng tôn giáo lờ mờ. Tại đó, xin để cho chiếc phong
cầm vang tiếng, đến với tiếng hát hết âm lượng phía dưới, trong buổi nhóm
thờ phượng với tiếng hát thánh ca trong trẻo, để qua tai tôi, nó sẽ trở thành
du dương, khiến tôi tan biến vào trong tình trạng xuất thần, và đem cả thiên
đàng đến trước mắt tôi (John Milton, Il Penseroso).
Thứ hai, thêm vào cho chức năng gây ấn tượng và gợi ý này, âm nhạc nhà
thờ cũng còn có chức năng biểu biện. Không những nó chỉ là một trợ tá cho
sự thờ phượng; mà như Walford Davies và Harvey Grace đã nhấn mạnh rất
đúng, nó còn là một phương tiện thờ phượng nữa. “Nếu ít nhất ca hát không
phải là một hành động tự nhiên và tự phát của con người như là nói, thì sẽ
chẳng có vấn đề biến âm nhạc thành một vật tự nó thật sự đảm nhiệm việc
thờ phượng công cộng. Có lẽ nó sẽ cứ vẫn là một trợ tá... Nhưng con người
vốn chẳng bao giờ có thể cùng nhau hát lên chính các lời lẽ của sự thờ
phượng của họ” (Xem Sđd., tt.44 và tt.). Như họ đã vạch rõ, nghệ thuật
không hề đối lập với thiên nhiên. Khi một đứa trẻ đã quá hạnh phúc vì đã
biết đi, thì điều hết sưc tự nhiên tự phát, là nó bắt đầu nhảy múa. Cũng thế,
khi lời nói được chất đầy cảm xúc thì nó có thể trở thành một bài ca. Thế thì
“Há không phải là có nhiều khi, tiếng nói của âm nhạc, dĩ nhiên là chính
phần nó chuyển tải tốt nhất sự thờ phượng công cộng, cũng chính là tiếng
nói vào những lúc khác hay sao?” Lẽ dĩ nhiên “phát ra một giai điệu về một
trật tự đơn giản và hoàn toàn phù hợp có thể trở thành tự nhiên đối với một
hội chúng các Cơ-đốc nhân như một tiếng nói tập thể, mà còn đẹp đẽ hơn
nhiều”. (Sđd..tr.61-52). Nhưng khi thiên hạ cùng nhau ca hát hoặc nhảy
múa, thì phần hồn nhiên tự phát phải được tổ chức, nó phải tìm được cách
biểu hiện bằng một vài hình thức nào đó. Vì sự thờ phượng thiết yếu là tính
cách tập thể, những lời ca ngợi tán tụng tự nhiên tự phát thốt ra phải được
diễn tả thế nào để tất cả đều họp lại với nhau cho hài hoà. Không lãnh hội
được nguyên tắc đơn giản này đã khiến Hội thánh tại Cổ-linh gặp rắc rối.
Phao-lô nói: “Khi anh em nhóm họp người hát thánh ca, người giảng dạy,
người tỏ bày mặc khải, người nói ngoại ngữ, người thông dịch: tất cả đều
nhằm mục đích gây dựng Hội thánh... vì Thượng Đế là Chúa bình an, Ngài
không ưa cảnh hỗn loạn” (ICo1Cr 14:26-33).
II. THI THIÊN VÀ THÁNH CA
Các hình thức theo đó việc ca ngợi tán tụng tập thể tìm cách biểu hiện, là thi
thiên và thánh ca. Giáo hội Cơ-đốc thừa kế việc cả hội chúng cùng ca hát
của Hội trường Do-thái giáo, và sách thánh ca đầu tiên của họ là sách Thi
thiên. Các Cơ-đốc nhân nhận thấy các bài ca của Si-ôn này là những vật
chuyển tải hết sức phù hợp lời ca ngợi tán tụng chúa của mình; các thi thiên
mà họ từng hát trong các hội trường mặc lấy một ý nghĩa đối với họ bởi vì
trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Thượng Đế đã viếng thăm và cứu chuộc dân
Ngài. Khi họ hát: “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu
thốn gì”, họ nghĩ đến Đấng Chăn Chiên Từ Ái đã phó mạng sống Ngài vì
chiên mình. Thi Tv 2:1-12 nói với họ về một Chúa Cứu Thế được uỷ nhiệm,
Thi Tv 22:1-31 đề cập Sự Thương Khó của Ngài, và 24:1-10 đề cập việc
Ngài được Tôn cao và vinh hiển.
Qua hơn mười chín thế kỷ, các thi thiên của người Hy-bá-lai đã cấu thành
nền móng cho việc ca ngợi tán tụng của Cơ-đốc nhân. Như chúng ta đã thấy,
sự thờ phượng hằng ngày của Hội thánh Trung cổ được xây dựng chung
quanh việc ca hát có trật tự hoặc đọc thuộc lòng cả sách Thi thiên mỗi tuần
một lần. Các thi thiên cung cấp phần Nhập đề (Introit) bắt đầu lễ Mi-sa, bài
ca Đi lên từ bực trên bậc cấp bước lên bàn thờ (graches) giữa (một) Thư tín
và (một) Sách Phúc âm, và lời ca ngợi tán tụng khi Dâng các Của lễ
(Offertory) và Tiệc thánh. Phần ca hát của Tổng Giáo hội mà lối thờ phượng
Cải cách tại Geneva trở thành nổi tiếng được giới hạn với bài thi thiên theo
vần luật la sirève calniniste) bài ca du dương của Calvin?) như các tín đồ
Giáo hội theo truyền thống Luther đã ghen tị gọi nó như thế (xem J.S.Whale,
Christian Worship, p.164). Lẽ dĩ nhiên qua một thế kỷ rưỡi, bài ca theo vận
luật của tổn giáo hội trong các Hội thánh theo truyền thống Luther. Do đó,
bài thi thiên ấy có một địa vị độc nhất vộ nhị với tư cách là hình thức cổ điển
của bài ca tán tụng, và chúng ta không thể bỏ qua nó mà khỏi tự loại mình ra
khỏi truyền thống tụng niệm của lịch sử và thay đổi đến tận gốc rễ đặc tính
của sự thờ phượng Cơ-đốc giáo.
Sách thi thiên của Cơ-đốc giáo... đem đến cho tấm lòng và môi miệng người
thờ phượng cuộc đời tận tuỵ trọn vẹn của Chúa Giê-xu, Đấng đã vì đó mà
sống và chết. Hơn nữa, nó đã đi theo Ngài để đến với đoàn người đông đảo
trên thiên đàng....mà trên đất này, là những người mà hằng ngày, hẳng tuần,
hằng tháng, hằng năm vẫn phấn đấu để biến đời sống họ rập mẫu theo cuộc
đời của Chúa Giê-xu, và ca ngợi tán tụng Đức Chúa Cha như Ngài đã làm
trong Nhân tính thánh khiết của Ngài lúc tại thế. Phải chăng chúng ta....gợi ý
rằng sách Thi thiên là một thứ lủng củng lỗi thời, phải được đối xử chiếu lệ
cho đến khi nào chúng ta có đủ can đảm của người bài trừ thánh tượng để từ
bỏ nó và thay thế bằng một thánh ca của Phúc âm? Nếu đúng như thế, là
chúng ta đang đánh thẳng vào chính đời sống của toàn thể nền âm nhạc
thuần chánh của Hội thánh, bởi vì chúng ta cắt đứt giòng chính của việc ca
ngợi tán tụng của Cơ-đốc giáo (W.Douglas, Church Music in History and
Practice, pp.135-136). Ít ra một thi thiên, dù là bằng văn xuôi hay theo vận
luật, đều phải có một chỗ đứng trong từng hành động trọn vẹn của sự thờ
phượng theo Cơ-đốc giáo. Trong một buổi nhóm thờ phượng có cấu trúc của
tiệc thánh, địa vị truyền thống của một bài thi thiên sẽ hoặc là ở điểm bắt
đầu như một hành động ca tụng mở đầu (phần Nhập đề của lễ Mi-sa), hoặc
là giữa các Bài học Kinh điển (phần Đi lên từ bực của lễ Mi-sa), hoặc lúc
Dâng Của lễ (Offertory), Bài Thi thiên Dâng của lễ của lễ Mi-sa, hoặc trong
lúc ban và nhận các yếu tố (Bài ca Tiệc thánh của lễ Mi-sa). Các Thi thiên
theo vận luật thích hợp có thể được dùng rất tốt trong bất kỳ một chỗ nào
hoặc là trong tất cả các chỗ trong buổi nhóm thờ phượng (tuy có thể mọi
người đều thích giữ im lặng khi mọi người cùng tương thông tương giao với
nhau khi dự Tiệc thánh hơn), nhưng một thi thiên bằng văn xuôi là thích hợp
nhất để được hát lên giữa các Bài học. Khi được dùng như thế, nó là một sợi
dây liên lạc thích hợp giữa những bài đọc Cựu và Tân ước, hoặc (một) Thư
tín và (một) Sách Phúc âm, như một phần của chức vụ về Lời Chúa. Chủ
đích của bài Gloria Patri (Tôn vinh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức
Thánh Linh; như đã có từ lúc bắt đầu, hiện có, và sẽ còn mãi cho đến tận thế.
A-men) và cùng với nó là một thi thiên bằng văn xuôi phải luôn luôn là phần
kết thúc, là để biến một thi thiên của Do-thái giáo thành một hành động ca
ngợi tán tụng của Cơ-đốc giáo “bằng cách khẳng định niềm tin vào Thượng
Đế, là Đấng tuy chỉ được mặc khải đầy đủ là Thượng Đế Ba Ngôi của Hội
thánh Tân ước, nhưng vốn đã thật sự được Hội thánh của Cựu ước nhận biết
rõ ràng rồi” (E.C.Raccliff “the Choir Offices” Litury and Worship, p.272).
Trong một buổi nhóm thờ phượng có hình thức của một lễ Hát, bài (hay các
bài) thi thiên họp thành một hành động ca ngợi tán tụng tiếp ngay sau các
biệt thánh ca và những câu đáp lại (như trong Bài Cầu nguyện Sáng và
Chiều của Giáo hội Anh quốc) hay những Bài Cầu Nguyện Tiếp cận (như
trong những buổi nhóm có cấu trúc một Buổi Nhóm Thờ Phượng của Giáo
hội Cải chánh) và trước các Bài học Kinh điển.
Các bài thi thiên vốn được dành để hát, chứ không phải để đọc; và chúng
phải được hát lên, dù là bằng tản văn hay theo vận luật, khi có thể được. Hơn
nữa, bài thi thiên theo vận luật cho dù có phẩm giá và đẹp đẽ đen đâu, cũng
chẳng bao giờ có thể được thay thế hoàn toàn thoả đáng bằng một bài thi
thiên bằng văn xuôi được hát lên, nhằm duy trì những câu và nhịp điệu thật
sự như đã có, của Kinh điển. Bài thi thiên theo vận luật phải được giữ lại
bằng mọi cách, không những là vì vẻ đẹp nội tại của nó, mà còn vì nó tạo
thành một sợi dây liên kết không thể cắt đứt được với sự thờ phượng của
Giáo hội Cải chánh nguyên thuỷ, nhưng việc hát những bài thi thiên bằng
văn xuôi cũng cần được phục hưng vì nó đã không được dùng tới trong
nhiều Hội thánh Tự do. Nhịp nói hiện đại không hề vượt quá khả năng để
thậm chí cả một hội chúng có được khả năng âm nhạc trung bình miễn là nó
được một ca đoàn được huấn luyện tốt hướng dẫn, và bài hát đơn hoặc kép
của “Anh quốc giáo”, với vẻ uy nghiêm và đơn giản của nó, vẫn có thể đứng
vững như một hình thức ca ngợi tán tụng không gì đối địch nổi. Thiết tưởng
chẳng cần chi phải nói rằng ta chẳng bao giờ nên vội vàng trong khi ca hát;
nó vốn không được dự định để phải thực hiện trong một số thì giờ hạn hẹp,
nhưng là theo cách đọc thuộc lòng, với sự chú ý tôn trọng câu cú và các dấu
chấm câu của bài thi thiên. Khi gặp những bài thi thiên không thể hát được,
chúng có thể được đọc đối đáp giữa vị mục sư và các tín đồ, vị mục sư đọc
cho đến khi gặp một dấu phẩy, rồi cả hội chúng đọc cả phần còn lại của câu
ấy. Cách đọc này được ưa chuộng hơn cách thay phiên nhau mỗi bên đọc
một câu, vì thi ca Hy-bá-lai gồm có nhiều khổ (conplets), phần thứ hai của
mỗi khổ bổ túc hoặc song đối với phần thứ nhất. 24:1-10 cho một thí dụ điển
hình:
Mục sư: Đất vả muôn vật trên đất
Tín đồ: Thế gian và những kẻ ở trong đó đều thuộc về Đức Giê-hô-va.
Mục sư: Vì Ngài đã lập đất trên các biển,
Tín đồ: Và đặt nó vững trên các nước lớn.
Mục sư: Ai sẽ được lên nước Đức Giê-hô-va?
Tín đồ: Ai sẽ đứng nổi trong nơi thánh của Ngài?
Mục sư: Ấy là người có tay trong sạch và lòng thánh khiết.
Tín đồ: Chẳng hướng linh hồn mình về sự hư không, cũng chẳng thề nguyện
giả dối.
Mục sư: Người ấy sẽ được phước từ nơi Đức Giê-hô-va
Tín đồ: Và sự công bình từ nơi Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi người.
Mục sư: Ấy là dòng dõi của những người tìm kiếm Đức Giê-hô-va,
Tín đồ: Tức là những người tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời của Gia-cốp.
Mục sư: Hỡi các cửa, hãy cất đầu lên!
Tín đồ: Hỡi các cửa đời đời, hãy mở cao lên, thì vua vinh hiển sẽ vào
Mục sư: Vua vinh hiển này là ai?
Tín đồ: Ấy là Đức Giê-hô-va có sức lực và quyền năng Đức Giê-hô-va mạnh
dạn trong chiến trận.
Mục sư: Hỡi các cửa, hãy cất đầu lên! Hỡi các cửa đời đời hãy ở cao lên,
Tín đồ: Thì Vua vinh hiển sẽ vào.
Mục sư: Vua vinh hiển này là ai?
Tín đồ: Ấy là Đức Giê-hô-va vạn quân, chính Ngài là vua vinh hiển.
Mục sư (Ông mục sư và các tín đồ có thể đồng thanh hát cả bài Gloria Patri):
Vinh hiển thay là Đưc Chúa Cha, Đức chúa Con, và Đức Thánh Linh.
Tín đồ: Ngài vốn đã có ngay từ ban đầu, hiện có và còn mãi cho đến tận thế.
A-men.
Như chúng tôi từng lưu ý trước đây, (Chương III, tr.48 sách này (?), không
nên lẫn lộn một thi thiên để đọc đối đáp với những đoạn Kinh điển để đọc;
nó là một hành động ca ngợi tán tụng chứ không phải là một vật để thay thế
cho Bài học Cựu ước.
Tuy Hội thánh Nguyên thủy đã tận dụng sách Thi thiên Do-thái giáo, hội
thánh ấy đã không chỉ giới hạn việc ca ngợi tán tụng của mình với toàn là
các bài thi thiên mà thôi. Bản thân các Cơ-đốc nhân còn tự soạn lấy nhiều
thánh ca theo luận đề Cơ-đốc giáo. Chúng ta tìm được nhiều trích đoạn của
những thánh ca như thế trong nhiều phần của Tân ước trogn Bức thư gởi cho
người Ê-phê-sô, Phao-lô có trích dẫn vài giòng sau đây:
Người đang ngủ, hãy thức dậy. Phải vùng dậy từ cõi chết. Để được Chúa
Cứu Thế chiếu sáng (Eph Ep 5:14).
Một trích đoạn khác từ thư thứ nhất gởi cho Ti-mộ-thư:
Đấng Tạo Hoá đã hiện ra trong thân xác, được Thánh Linh chứng thực.
Được thiên sứ chiêm ngưỡng, được công bố cho mọi dân tộc. Được nhân
loại tin nhận, và được lên trời trong vinh quang (ITi1Tm 3:16).
Chúng ta còn tìm thấy một trích đoạn nữa trong thư thứ hai gởi Ti-mộ-thư:
Nếu chúng ta chịu khổ, chịu chết với Chúa, sẽ được sống lại với Ngài. Nếu
chúng ta chịu đựng mọi thử thách, sẽ được cai trị với Chúa. Nếu chúng ta
chối Chúa, Ngài cũng sẽ chối chúng ta. Dù chúng ta thất tín, Cúa vẫn thành
tín (IITi 2Tm 2:11-13).
Nhiều khi có những đoạn Kinh điển khác ngoài các thi thiên cũng được hát
lên. Có một đoạn như thế là Bài Ca của Môi-se trong XuXh 15:1-27
Đức Giê-hô-va là sức mạnh và sự ca tụng của tôi, Ngài đã trở nên Đấng cứu
tôi; Ngài là Đức Chúa Trời tôi, tôi ngợi khen Ngài.
Có ba đoạn khác được trích từ sách Phúc âm Lưu-ca - các bài ca của Xa-
cha-ri, Ma-ri và Si-mê-ôn, mà chúng ta được biết dưới những cái tên tương
ứng là Benedictus, Magnificat và Nunc Dimitis (theo những chữ đầu trong
bản Vulgate La-văn). Chẳng bao lâu, nhiều sáng tác theo thể thức các bài
này cũng xuất hiện, trong số đó, có ba bài đã có ngay từ những ngày đầu
tiên, vẫn tồn tại. Bản dịch Anh-văn của một trong số ba bài đó vẫn còn được
hát ở cuối các buổi nhóm Tiệc thánh của Giáo hội Anh quốc và Giám lý. Nó
bắt đầu bằng: “Vinh danh Thượng Đế trên trời, bình an dưới đất cho người
thành tâm”, nguyên là một bài thánh ca hát vào lúc sáng sớm, được dùng lúc
trời còn tối khi các đèn trong nhà thờ hãy còn sáng, và được Keble dịch ra
Anh văn năm 1834 là “Chào mừng Áng sáng vui vẻ”. Bài thứ ba là bài Ta
Deum, thuộc thế kỷ thứ tư và được mọi người xem như tác phẩm của Niceta,
giám mục Remesiana. Cũng vào cuối thế kỷ này, St.Ambrose giám mục
Milan xuất hiện như nhà tiền phong đích thực của các bài thánh ca Cơ-đốc
giáo. Việc ông đưa chúng vào nhà thờ là một cuộc cách tân tại thánh đường
Milan, chẳng bao lâu đã được chú ý vì đặc tính ca ngợi tán tụng của toàn thể
hội chúng, gây ấn tượng sâu sắc của nó.
Việc hát cả các thi thiên lẫn các thánh ca đứng ra phải thuộc quyền của toàn
thể hội chúng; chúng là vật chuyển tải lời ca ngợi tán tụng của các tín đồ.
Nhưng trong thời kỳ Hôn ám, việc ca hát của toàn thể hội chúng đã biến
mất. Thánh ca Trung cổ chỉ được giới tăng lữ họp thành ca đoàn hát lên, do
đó, phần hình thức và cấu trúc được trau chuốt hơn. Như T.C.Burkitt vạch
rõ, đây là nguồn gốc của bài thánh ca hiện đại, được giữ lại như một thánh
ca cho ca đoàn sau khi cuộc Cải chánh vãn hồi việc toàn thể hội chúng cùng
ca hát vào đúng chỗ họ có thể ca hát (Christian Worship, p.105). Các đóng
góp của Luther và Calvin thì đã được ghi nhận rồi. Trong khi Calvin giới
hạn việc các tín đồ ca ngợi tán tụng Chúa bằng bài thi thiên có vận luật thì
Luther tự soạn lấy các thánh ca cho mình; bài Ein'feste Burg ist unser Gott,
đã được Thomas Carlyle dịch là “Thượng Đế vẫn còn là bức thành luỹ biến
cố của tôi”, là một thí dụ đáng chú ý. Tại Anh quốc, các thi thiên thọ vận
luật của Sternhold và Hopkins đã chiếm hàng đầu trong lãnh vực này, cho
đến đầu thế kỷ thứ mười tám, Isaac Watts mới làm cách mạng trong việc ca
ngợi tán tụng Chúa của Hội thánh trong nhà thờ:
Ông là người sáng tạo ra bài thánh ca hiện đại bằng tiếng Anh, vốn không
phải cả là một thánh ca cho Buổi nhóm thờ phượng như của Wither, Ken,
hoặc Austine, lẫn là một thi thiên theo vận luật, cũng không phảilà một bài
diễn ý Kinh điển thật sát nghĩa, nhưng là một chủng loại mới, được phát
triển từ cái tên sau cùng, và lần lần tiến tới một cách giải quyết tự do mới mẻ
và một hình thức nghệ thuật quân bình, câu đối (Phần “Dẫn nhập” của Frere
trong Ấn bản Lịch sử quyển Hyms Ancient and Modern, p.lxxxiii) nhan đề
quyển sách của Watts: Các Thi thiên của Đa-vít được bắt chước và viết theo
ngôn ngữ Tân ước, cùng với các Thánh ca và Bài ca thuộc linh, tự nó đã giải
thích mọi sự. Phần mô tả ngắn gọn nội dung của nó của B.L.Manning có thể
được trích dẫn:
Như nhan đề chỉ rõ, nó gồm hai phần và có chiều dài gần bằng nhau. Trong
phần đầu, tiến sĩ Watts giới thiệu một bản dịch sách Thi thiên bằng văn vần.
Nó không phải chỉ là việc viết lại 150 bài thi thiên suông. Có một số bài bị
bỏ sót. Có một số được rút ngắn. Một số được giới thiệu bằng bản dịch theo
các vận luật khác nhau. Một số bài được chia thành nhiều phần. Tất cả đều
chịu phép báp-tem của Cơ-đốc giáo...
Phần thứ hai của quyển sách dành cho các bài thánh ca. Trước hết là trích từ
một sách về các thánh ca “sưu tập từ Kinh điển” - nghĩa là những bản dịch
diễn ý những khúc sách cả trong Cựu lẫn Tân ước. Thứ hai, nó là một sách
về các thánh ca “được soạn theo Đề tài Thần học” - nghĩa là những bài
thánh ca theo cách chúng ta phải hiểu danh từ đó, được soạn thảo tự do,
không có đặc biệt tham khảo Thánh điển. Thứ ba, và là sau cùng, đó là
những thánh ca “được soạn cho thánh lễ Bữa Tiệc Tối của Chúa”. Như
Watts đã kết thúc sách Thi thiên của ông bằng sáu bản dịch bài Gloria Patri
theo nhiều vận luật khác nhau, thì ông cũng kết thúc sách thánh ca của mình
bằng nhiều bài khác. Một số có hình thức của các thánh ca. Một số chỉ có
một câu duy nhất mà thôi. Thêm vào các câu đó, ông thêm bốn tiếng Hô-sa-
na dành cho Con Thượng Đế. Kết quả đây là một quyển sách rất có thực
chất (The Hyms of Wesley and Watts, p.80-81).
Isaac Watts từ bỏ cách “làm văn” của những bản dịch thi thiên thông thường
để nói lên chủ đích quan trọng của ông là nhằm “dạy tác giả của tôi nói như
một Cơ-đốc nhân” (Works, iv.119). Tuy nhiên, ông đã thành công, chẳng
những trong việc “Cơ-đốc giáo hoá” sách Thi thiên, mà còn là trong việc
khiến cho bài thánh ca chiếm được một vị trí vững vàng trong buổi nhóm
thờ phượng của người Anh. Bằng việc làm này “ông đã vãn hồi việc ca ngợi
tán tụng Chúa trong Cơ-đốc giáo, dành cho nó địa vị phải lẽ trong giai đoạn
có Bất Đồng Ý Kiến trong vấn đề thờ phượng hồi đầu thế kỷ thứ mười tám
(Horton Davies, Sđd.tr.178) và do đó khiến cho việc tĩnh tâm (devotion)
đang hấp hối của thời đại ấy được sống lại.
Truyền thống hát thánh ca của Thanh giáo đã nở rộ với Isaac Watts còn
được bổ sung và phong phú hoá bởi truyền thống Tin Lành (Evangelical) bắt
nguồn từ John và Charles Wesley. Như B.L.Manning nhận xét: “Chẳng ai có
thể đọc Watts mà lại không nghĩ đến Wesley và chẳng gì có thể giúp được
cho một người thấy rõ tính cách vĩ đại của các bài thánh ca của Watts thật rõ
cho bằng biết rõ Wesley (Sđd.tr.78). Watts cho xuất bản sách Thánh ca
(Hyrums) của ông năm 1107 (Một ấn bản thứ hai có tăng bổ ra mắt năm
1709) và sách Thi thiên (Psamls) năm 1719; do đó, cần phải xếp bên cạnh
chúng quyển Một sưu tập các Thánh ca dành cho các Tín đồ Giáo hội Giám
lý sử dụng của John Wesley, ra mắt năm 1780. Manning nói quyển sách này
“được xếp vào nền văn học Cơ-đốc giáo cùng với sách Thi thiên, sách Cầu
Nguyện Phổ Cập sách Giáo luật về lễ Mi-sa” (Sđd., tr.14). Chính Wesley
cũng mô tả nó là “một bộ phận nhỏ của ngành thần học thực nghiệm và thực
hành”. Theo Wesley thì tôn giáo “thực nghiệm” không phải là chủ quan chủ
nghĩa, nó có nghĩa là việc một cá nhân tự đem đạo của lịch sử ứng dụng vào
chính mình. “Niềm tin của Wesley bắt nguồn từ đức tin (đạo) chính thống,
phổ quát (catholic) và của Phúc âm... Chẳng có gì sai cho bằng hình dung ra
trái tim của tôn giáo của Wesley như một kinh nghiệm cá nhân, hay thậm chí
như một cảm thức riêng tây. Trái tim của tôn giáo của Wesley là giáo lý
thuần chánh” (D.L.Manning, Sđd., tt.74-75). Manning tóm tắt các đức tính
phân biệt của các bài thánh ca của Wesley dưới ba tiểu mục. Một là, nội
dung giáo lý của chúng; chúng là một thái độ chiêm ngưỡng đức tin Cơ-đốc
giáo phổ quát, theo Phúc âm với quỹ đạo trọn vẹn của nó. Thứ hai, là bản
tính theo kinh nghiệm của chúng; chúng kể lại một kinh nhiệm sống của đức
tin ấy:
Chúng tôi quyết (nên) kể lại
Điều chúng tôi đã cảm nhận và đã thấy.
Và thứ ba, là phẩm chất thần bí của chúng; chúng phản ảnh “sự táo bạo
thuộc về trời” của một người đã được cùng ngồi tại các nơi trên trời với
Chúa Cứu Thế.
Trong đó có phần cấu trúc vững chắc của giáo điều lịch sử; có một sữ rung
động của nỗi đam mê của kinh nghiệm hiện tại; nhưng cũng có hào quang
của một tia sáng mặt trời thần bí trực tiếp đến từ một thế giới khác. Điều này
làm thay đổi bộ mặt của lịch sử và kinh nghiệm. Nó đặt quá khứ và hiện tại
vào trong cái BÂY GIỜ và thời gian và vĩnh cửu...Wesley đã được caí vinh
quang là kết hợp cả ba điều căng thẳng này - giáo điều, kinh nghiệm, thần bí
chủ nghĩa - vào trong một câu đơn giản đến mức nó có thể đựơc hiểu êm ái
đến mức nó có thể được mọi người mộc mạc chất phác sử dụng (Sđd., tt.27-
30).
Như thế, Hội thánh ngày nay đã thừa hưởng được một di sản về thánh ca
gồm ba phương diện: nó thừa hưởng truyền thống Phổ quát của St.Ambrose
và thời Trung cổ, được các tín đồ Tractarias là Faber, Heble và Newman
củng cố; nó thừa hưởng truyền thống Thanh giáo của Milton và Doddridge
mà đại diện tối cao là Isaac Watts; và truyền thống Ti Lành của Zinzendorf
và nhóm Moravians cũng truyền lại cho nó những đoá hoa vô cùng tươi đẹp
của John và Charles Wesley.
III. CÁC CÔNG DỤNG CỦA THÁNH CA
Có một sự khác nhau căn bản giữa công dụng của các thánh ca trong sự thờ
phượng của Anh quốc giáo, với chức năng của chúng trong một buổi nhóm
lại của Giáo hội Tự do. Trong sự thờ phượng có trật tự của Giáo hội Anh
quốc, các thánh ca là phần tụng niệm phụ thêm; chúng không họp thành một
phần của sự tụng niệm đích thực, nhưng đi trước hoặc theo sau nó như vai
trò của các tiền bối của chúng là các thi thiên theo vận luật của các thế kỷ
thứ mười sáu và mười bảy. Phần tụng niệm dù là của Buổi Nhóm Tiệc Tháh
hay Buổi Cầu Nguyện Sáng hoặc Chiều - đều tự nó vốn hoàn tất, hoàn toàn
biệt lập đối với chúng.
Hiến chương về hát thánh ca trong Giáo hội Anh quốc là điều thứ 49 của các
Sắc lệnh Hoàng gia của Nữ hoàng Elizabeth (1559) trong đó cho phép “để
đáp ứng tinh thần yêu thích âm nhạc đó...thì lúc bắt đầu hay vào cuối những
Bài Cầu Nguyện thông thường, hoặc buổi sáng hay chiều tối, có thể có hát
một thánh ca hoặc một bài ca giống như thế, để ca tụng Thượng Đế Toàn
Năng, bằng loại giai điệu và âm nhạc hay nhất tuỳ ý chọn sao cho phù hợp
(F.C.Burkitt, Christian Worship, pp.109-110).
Lẽ dĩ nhiên, những thánh ca được đềc ập ở đây là các thi thiên theo vận luật
hoàn toàn độc lập đối với các thi thiên bằng văn xuôi đọc trong Buổi Nhóm
Thờ Phượng thật sự trong ngày. Tuy nhiên, trong sự thờ phượng của Giáo
hội Tự do, các thánh ca, thay vì là phần tụng niệm phụ thêm, lại là một phần
chính thức và tất nhiên tối quan trọng của chính buổi nhóm lại (T/c
K.L.Parry, “Prayer and Praise” trong Christian Worship (ed. N.Micklem),
p.240 “Sau bài cầu nguyện tự nhiên tự phát, bài thánh ca của Tổng giáo hội
là nét đặc trưng hơn hết của sự thờ phượng của Giáo hội Tự do"), chúng họp
thành phần khung sườn của việc tụng niệm thường trực của buổi thờ
phượng. Do đó, chúng đảm trách các nhiệm vụ của nhiều thành phần khác
nhau cấu thành một buổi tụng niệm (Xem B.L.Manning, Sđd.tr.133: “Với
chúng tôi là các Nhóm Bất Đồng Ý Kiến thì các bài thánh ca có công dụng
của phần tụng niệm đối với người tín đồ Anh quốc giáo. Chúng là phần
khung sườn, là bối cảnh là phần được quy ước, là phần truyền thống của
buổi nhóm lại thờ phượng Thượng Đế, theo như cách chúng tôi sử dụng buổi
nhóm lại đó. Nếu theo cách nói của các nhà tụng niệm học thì chúng là công
cụ của các nhóm Bất Đồng Ý Kiến"). Trong khi theo truyền thống Anh quốc
giáo, cách sử dụng fhúng bình thường được giới hạn trong việc dâng lên lời
ca tụng mở đầu và kết thúc giờ thờ phượng (tuy nằm ngoài buổi nhóm chính
thức) (Có một ngoại lệ là bài “Affice Hymn” Xem C.S.Phillips, Sđd.tt.97-
98), thì trong những buổi nhóm lại của Giáo hội tự do, chúng còn có thể là
tiếng nói của bài cầu nguyện tập thể của hội chúng và nói lên lời xưng nhận
đức tin của họ nữa.
1. Như một hành động ca tụng. Chức năng chủ yếu của một bài thánh ca là
nói lên lời ca ngợi tán tụng của Hội thánh. Nếu sự thờ phượng của Cơ-đốc
nhân là lời đáp lại của Hội thánh Cơ-đốc, với sự mặc khải của Cơ-đốc giáo,
thì ca ngợi tán tụng Chúa phải là âm hiệu đặc sắc của việc làm ấy. Lẽ dĩ
nhiên nó chính là yếu tính của mọi công tác thờ phượng chân chính: chúng
tôi nhióm lại và gặp nhau là để “dâng lên lời ca ngợi tán tụng xứng đáng
nhất cho Ngài”.
Cả hai chức năng gây ấn tượng và biểu hiện của sự thờ phượng đều đạt tuyệt
đỉnh trong việc ca ngợi tán tụng. Vì trong lời ca tụng, chúng ta diễn tả sự
toàn thiện toàn mỹ và vinh quang của Thượng Đế bằng cả tấm lòng, tâm trí
và linh hồn. “Mọi điều gì ở trong ta, hãy ca tụng danh thánh của Ngài”.
Cũng bằng lời ca ngợi tán tụng, chúng ta đề cao vẻ uy nghiêm và tình yêu
thương của Thượng Đế. “Tôi sẽ dâng lên lời cảm tạ giữa hội chúng đông
đảo”. Lời ca tụng cũng là phương pah1p để tương thông tương giao với
Thượng Đế. “Hãy đến trước hiện diệ Ngài với lời cả tạ...” Hơn nữa chính
hành động ca ngợi tán tụng hàm ngụ một quan niệm về Thượng Đế. Nó là
hành động đặc sắc nhất trong sự thờ phượng theo Cơ-đốc giáo” (K.L.Parry,
Sđd., tt.239-40. Trong đoạn này, tôi đã mang nợ bài khảo luận của ông Parry
rất nhiều).
Hai yếu tố trong cách đáp lại Lời Thượng Đế của người thờ phượng, lời cầu
nguyện và lời ca tụng thường hoà lẫn vào nhau; phần này có thể được biểu
hiện bằng hình thức bình thường của phần kia. Một thánh ca có thể là vật
chuyển tải lời cầu nguyện; việc ca tụng có thể được biểu hiện trong sự tôn
thờ và cảm tạ, cũng như trong việc ca hát. Nhưng như K.L.Parry chủ trương,
ca hát “là cách biểu hiện lời ca ngợi tán tụng tập thể tự nhiên nhất”. Do đó
“điều cao cả nhất trong bài thánh ca tán tụng, là chúng ta đồng tâm hiệp ý
với Hội thánh Phổ quát, cả trên trời lẫn dưới đất, để đề cao ân phúc và vinh
quang của Thượng Đế” (Sđd.tr.239).
Các bài thánh ca kể về từng trải cá nhân, khuyến giục mọi người sống hoà
nhã tử tế và làm việc thiện kêu gọi tội nhân ăn năn, rất có thể đựơc dành cho
một chỗ trong uổi nhóm phục hưng hoặc trong chiến dịch truyền giảng Phúc
âm. Nhưng chủ đích hàng đầu của thánh ca như một hình thức tụng niệm, là
lời ca tụng Thượng Đế Toàn năng. Do đó, trong buổi nhóm thờ phượng công
cộng “các bài thánh ca phải được ngõ với Thượng Đế chứ không phải là với
loài người” (Sđd.tr.228) như Parry đã nhấn mạnh rất đúng. Sự kiện này đã
được nêu rõ trong nguyên văn La-tinh của bài TeDeum. Dịch theo nghĩa
đen, bài ấy sẽ như sau:
Ngài, với tư cách là Thượng Đế, chúng tôi ca tụng
Ngài, với tư cách là Chúa, chúng tôi công nhận;
Ngài, là Cha đời đời cả đất đều thờ phượng...
Chủ đích của sự thờ phượng là bản thân chúng ta tự hướng sự chú ý về phía
Thượng Đế. Chúng ta nhóm lại và gặp nhau không phải trước hết là để trình
dâng các nhu cầu của mình lên cho Thựơng Đế, không phải trước hết là để
tìm cầu sức lực cho những ngà sắp đến nhưng trước nhất và trên hết là để
dâng lên cho Thượng Đế lời ca ngợi tán tụng xứng đáng nhất, để tôn vinh
Chúa đúng với danh Ngài. Tầm quan trọng tối cao của sự thờ phượng là ở
chỗ con người đạt được cứu cánh chủ yếu của mình nhờ tôn vinh Thượng
Đế ("Người ta thông bảo rằng việc thờ phượng là phần chuẩn bị cho đời
sống. Có lẽ đúng hơn là phải nói rằng đời sống là phần chuẩn bị cho sự thờ
phượng” - K.L.Parry, Sđd., tr.230). Do đó, ca ngợi tán tụng là âm hiệu đặc
sắc của nó, cũng như đặc điểm của Tiệc thánh là quy tắc của nó; mà vật
đứng trung gian cho lời ca ngợi tán tụng là bài thánh ca.
2. Như một lời cầu nguyện. Một công dụng thứ hai và có phần kém hơn của
thánh ca, ấy là nó làm trung gian cho sự cầu nguyện. Nó có thể biểu hiện sự
tôn thờ:
Lạy Thượng Đế Ngài thật diệu kỳ biết bao
Vẻ uy nghiêm của Ngài sáng chói biết bao...
Hoặc lời kêu cầu:
Lạy Chúa xin chiếu sáng ngôi nhà này bằng vinh quang Ngài
Xin mời vào và chiếm lấy nó làm của riêng Ngài...
Nó có thể đứng trung gian cho lời xưng tội và Khẩn nài:
Ôi, một kẻ được sinh ra trong bầu không khí tối tăm,
Có tâm trí âm u như con sẽ ra sao
Trước hiện diện của Đấng Không Lời nào Mô tả được
Và tâm thần trần trụi của con làm thế nào chịu đựng nổi
Ánh sáng không phải do loài người tạo ra ấy?
Lạy Chúa yêu dấu và là Cha của nhân loại
Xin tha thứ cho con đường lối nông nổi của chúng con.
Xin mặc lại cho chúng con tâm trí đứng đắn
Những đời sống thuần khiết để phục vụ Ngài
Bằng lời ca tụng thành kính sâu nhiệm hơn.
Hoặc lời cảm tạ
Chúng con nợ Ngài, là Đấng ban tất cả
Lời tri ân và ca tụng
Vì những ngôi nhà an bình, những ngày đầy sức khoẻ
Về mọi phúc lành mà mặt đất phô bày
Hoặc cả lời Cầu thay nữa:
Ôi, lạy Thượng Đế nhân từ thương xót, đến bao giờ
Đến bao giờ Ngài mới cứu giúp dân Ngài...?
Ôi xin nghe chúng con khi chúng con kêu cầu Ngài
Thay cho những kẻ đang trầm luân ngoài biển
Tang lễ vốn được biểu hiện thật hay bằng những bài thánh ca như:
Xin cho chúng con gặp lại các bạn thân của mình trên trời
(là những người) đã nhận được phần thưởng...
Dành cho tất cả các thánh đồ đang được nghỉ ngơi sau thời gian lao khổ.
Với tư cách một bài Cầu nguyện xin được soi sáng thì có gì địch nổi với:
Xin Đức Thánh Linh hãy đến, vì do Ngài cảm động
Mà các nhà tiên tri đã viết và nói;
Chính Ngài là chiếc chìa khóa, mở khoá chân lý
Tháo ấn của bộ Sách Thiêng Liêng.
Cuối cùng, Wesley và Watts mỗi người đều tặng cho chúng ta một cách biểu
hiện cảm động về việc hiến thân:
Xin sẵn sàng cho mọi ý chỉ trọn vẹn của Ngài
Chúng con xin lặp lại các hành động của đức tin và tình yêu thương
Xin Ngài đóng lên (trên chúng con) chiếc ấn của lòng nhân từ thương xót vô
tận cho đến khi (chúng con) qua đời.
Và khiến của lễ này nên trọn vẹn.
Cho dù tôi được tặng cả cõi thiên nhiên này làm quà,
Nó vẫn là quá nhỏ mọn;
Nhưng tình yêu thương diệu kỳ của Thượng Đế
Đòi hỏi cả linh hồn, đời sống, mọi sự của tôi.
Được hát lên với lòng tôn kính và chân thành những bài thánh ca như thế sẽ
dẫn truyền lời cầu nguyện tập thể nhiệt thành.
3. Như một Lời xưng nhận Đức tin. Thứ ba một bài thánh ca có thể được sử
dụng như một lời xưng nhận đức tin, một bản tuyên ngôn về các hành động
quyền năng của Thượng Đế trong các công trình Sáng Tạo, Cứu chuộc và
Thần hựu, một lời trình bày những điều thường được chúng ta chắc chắn tin
tưởng. Chức năng này của bài thánh ca có thể được kết hợp với một hoặc tất
cả các chức năng khác của nó; vì lẽ dĩ nhiên, những bài thánh ca nổi tiếng
nhất đều gợi ý hãy ca ngợi tán tụng Thượng Đế bằng cách chiêm ngưỡng các
sự kiện trung tâm của đức tin. Bài “Hãy ca tụng trong nơi Chí thánh trên
cao” của John Henry ewman là một thí dụ cổ điển. Tuy nhiên, món nợ lớn
nhất của chúng ta là đối với Watts và Wesley. Các thánh ca của cả hai tác
giảnày đều phong phú về nội dung giáo lý, trình bày các giáo lý quan trọng
của Cơ-đốc giáo. Thí dụ như các đề tài của Isaac Watts không phải là những
buổi hoàng hôn hay các đỉnh núi, tiếng thì thầm của rừng cây hay tiếng suối
róc rách, mà chúng là những niềm tin trung tâm của tôn giáo thánh của
chúng ta. Mỗi điều khoản tong Bài Tín Điều của các Sứ đồ đều có một chỗ
đứng trong các bài thánh ca của ông:
Ngài dựng nên đất, trải trời ra
Và gắn chặt các vì sao sáng trên cao.
là “Tôi tin Đức Chúa Trời Toàn Năng là Cha, là Đấng dựng nên trời đất”
Ngài sai Con Ngài đầy quyền năng để cứu
Khỏi tội lỗi bóng tối và mồ mả
là “Tôi tin Giê-xu Christ là Con độc sanh của Đức Chúa Trời và Chúa chúng
ta”.
Ngài hướng dẫn chân chúng con xuyên qua thế gian hư không này
Và đưa chúng con đến nơi ngữ thánh khiết của Ngài.
là “Tôi tin Thánh Linh”
Chúng ta hãy đến, đồng thanh ca hát vui vẻ
Với các thiên sứ quanh ngai.
là: “Tôi tin Hội thánh Phổ thông, sự cảm thông của thánh đồ”
Quyền năng Ngài chế phục tội lỗi chúng con
Và tình yêu thương tha thứ của Ngài,
Cất đi mọi tội lỗi chúng con,
Như phương Đông xa cách phương Tây vậy
là: “Sự tha tội”
Họ cứ ngày càng được tăng thêm sức lực
Qua tiếng khóc lóc tối tăm của đời này
Cho đến khi cuối cùng đến được nơi
Mỗi người đều xuất hiện trên thiên đàng.
Ôi, ngai quang vinh
Khi Thượng Đế Vua ta
Sẽ đưa vào đó
Những đôi chân sẵn sàng của chúng ta!
là: “Sự sống lại của thân thể, và sự sống đời đời. A-men”.
Các giáo hội Tự do cổ điển của Anh quốc Báp-tít, Tổng hội, Trưởng lão, và
Giám lý - đều đứng trên truyền thống giáo điều trung tâm của Cơ-đốc giáo.
Ho5 bám chặt trọn vẹn Đạo Phổ thông của các Sứ đồ - là đạo của toàn thể
Hội thánh. Đạo (đức tin) ấy phải được côngbố trong sự thờ phượng của
chúng ta, và đây là công dụng có tính các xưng nhận đức tin của bài thánh
ca: bài tín điều của chúng ta, nếu không được đọc, thì còn có thể được hát
lên nữa. Nếu chúng ta thành tín với truyền thống hát thánh ca của mình, Đạo
Phổ thông mà chúng ta tuân giữ được thể hiện trong cấu trúc tụng niệm miễn
viễn của sự thờ phượng của chúng ta khi đạo ấy được phô bày ra trong lời ca
ngợi tán tụng tập thể của chúng ta.
CÁC THÁNH LỄ
I. LỜI HỮU HÌNH
Hành động trung tâm của Lễ Hôn phối là viec trao và nhận một chiếc nhẫn.
Chiếc nhẫn không tạp thành cuộc hôn nhân. Lời thề nguyền chân thành của
chú rể và cô dâu bằng lời lẽ theo một hình thức quy định sẵn, là tất cả những
gì được đòi hỏi về mặt pháp lý. Nhưng chiếc nhẫn là một dấu hiệu ngoại tại
và hữu hình đóng ấn cho lời đã hứa. Lời hứa hay lời thề nguyện, là điều tối
quan trọng; nhưng chiếc nhẫn biểu hiện lời ấy bằng một hình thức thấy
được. Suốt cuộc đời còn lại của mình, người vợ đeo chiếc nhẫn ấy, và nó là
vật thường xuyên nhắc nhở cho cả đôi vợ chồng về lời thề nguyện của họ là
chung thuỷ và yêu thương nhau. Với đôi vợ chồng ấy, nó là một lời nói hữu
hình.
Ý nghĩa của chiếc nhẫn đối vứi cô dâu, cũng là ý nghĩa của các Thánh lễ đối
với Hội thánh: chúng là những dấu hiệu, những dấu ấn của các lời hứa của
Thượng Đế (Calvin định nghĩa một Thánh lễ là “một dấu hiệu bên ngoài bởi
đó Chúa ấn chứng cho lương tâm chúng ta về những lời hứa của thiện ý
Ngài đối với chúng ta để nâng đỡ sự yếu đuối của đức tin chúng ta” -
Institutes IV, xiv.1). Chúng “thay mặt cho những điều vô hình theo một
cung cách là áp dụng cho khả năng yếu đuối của chúng ta, và cho chân lý
thuộc linh, vốn được các dấu hiệu hình dung và phơi bày ra ngay tức thì”
(Calvin, Sđd.IV, xvii 11). “Chúng trình bày Chúa Giê-xu càng rõ rànghơn
cho chúng ta..Vì phép báp-tem chứng thực rằng chúng ta đã được rửa sạch
và thanh tẩy; Tiệc thánh chứng thực chúng ta đã được cứu chuộc” (Sđd., IV,
xiv.22). Do chúng nêu rõ Ngôi Lời đã mang lấy hình hài thân xác con người,
theo cách nói của St.Augustine phép báp-tem và Tiệc thánh là verba visibilia
- “lời (nói) hữu hình”.
Một định nghĩa như thế đặt ngang các Thánh lễ vào chính trung tâm điểm
của sự thờ phượng theo Cơ-đốc giáo, khiến chúng lệ thuộc vào phần mặc
khải của Cơ-đốc giáo. Lời Thượng Đế, mà sự thờ phượng là phần đáp lại,
được trình bày trong các Bài học của Kinh điển, Bài giảng, bài tín điều (khi
được sử dụng) việc tụng niệm (dù là một “hình thức quy định sẵn hay các
bài thánh ca “là bài tụng niệm được hát lên), và cả cách trình bày bằng kịch
tuồng trong lễ Báp-tem và Tiệc thánh. Cho nên, cùng với Thánh Kinh và
Công tác truyền giảng, các Thánh lễ là một trong những “cách thức” đầu tiên
của (Ngôi) Lời, vì chúng thể hiện và trình bày Phúc âm. Như thế, sự thờ
phượng trong Cơ-đốc giáo là sự hoà tan của hai yếu tố, một điều gì đó được
nói ra (legomenon) và một điều gì đó được làm (drõmenon); cả hai đều là
việc thể hiện và là việc đáp lại, với chính (Ngôi) Lời của Thượng Đế, là
“Ngôi) Lời của sự mặc khải và sự cứu chuộc. Nhưng phần thứ hai lệ thuộc
phần thứ nhất: (Ngôi) Lời được nói ra và được nghe có quyền ưu tiên;
(Ngôi) Lời hành động và hữu hình là dấu hiệu và dấu ấn của nó ("Giáo hội
Kháng cách truyền giảng, không phải là một Phúc âm về các thánh lễ, mà là
các thánh lễ của Phúc âm” - N.Micklem, Chirstian Worship, p.245) các
Thánh lễ không đứng riêng lẽ một mình. Calvin - mà thánh lễ có nghĩa là tất
cả - là người đầu tiên thừa nhận rằng ngoài việc được hiểu là một lời hứa,
một Thánh lễ vốn trống rỗng như một dấu ấn đóng trên một mảnh giấy da
mà chẳng có gì được viết trên đó cả (Institutes, IV.xiv.4-5). Và ông nhận xét
rằng tên trộm cướp biết ăn năn trên thập tự giá đã trở thành người anh em
của các tín hữu, mặc dù anh ta chẳng bao giờ dự Tiệc thánh (Sđd.IV,xvi.31).
Calvin, người rất ao ước vãn hồi được Tiệc thánh hằng tuần, vốn không phải
là người thu hẹp, lại càng không phải là người làm suy giảm giá trị, của các
Thánh lễ; nếu chẳng đề cập gì khác, thì ông là một con người rất hợp lý. Ông
chỉ muốn nhìn chúng trong viễn cảnh đích thực của chúng, là những dấu
hiệu và dấu ấn của (Ngôi) Lời mà thôi. Luther nói: “(Ngôi) Lời, và chỉ có
(Ngôi) Lời mà thôi, mới chuyển tải ân phúc Thượng Đế”. Do đó, như
Nathariel Micklem nhận xét “các Thánh lễ nói về ân phúc Thượng Đế, vì
chúng là các kiểu thức của (Ngôi) Lời” (Sđd., tr.243).
Theo sau điều này, là hai việc. Thứ nhất, vì Than1h lễ thể hiện và trình bày
Phúc âm về sự tha thứ và ban ân phúc của Thượng Đế, điều tối quan trọng
trong nó là hành động của Thượng Đế chứ không phải là kinh nghiệm của
con người. “Nó thuộc về truyền thống của chúng ta và về chân lý của Phúc
âm, nhằm đặt tất cả các dấu nhấn mạnh trên hành động của Thượng Đế hằng
sống. Chính Thượng Đế kêu gọi và tái sinh, chính Ngài đến và phó chính
mình cho chúng ta. Hành động của Ngài là đầu tiên và sau cùng; sự thờ
phượng của chúng ta chỉ là việc đáp lại hành động của Ngài, một lời đáp lại
với (Ngôi) Lời của Ngài (Như trên). Điểm nhấn mạnh trong lễ Báp-tem
không phải là trên việc chúng ta trình và dâg đứa trẻ lên, hoặc thậm chí là
đức tin của chúng ta nữa, nhưng là trên ân phúc tể trị tái sinh của Thượng
Đế. Ta không thể đo đạc hiệu quả của Tiệc thánh bằng cường độ của kinh
nghiệm xúc cảm của chúng ta tại Bà Tiệc của Chúa; nó là Chúa Cứu Thế san
sẻ chính Ngài cho chúng ta qua trung gian của chiếc bánh bị bẻ ra và rượu
nho bị đổ ra. Nói như thế không có nghịa là bảo rằng phần của con người
trong các Thánh lễ là không quan trọng; nó là việc tái xác nhận lời khẳng
định trong Thánh Kinh của Giáo hội Kháng cách cổ điển rằng trong công tác
cứu rỗi chúng ta, chỉ có hành động của Thượng Đế mới chiếm hàng đầu, còn
những gì con người làm bao giờ cũng là thứ yếu. “Anh em được cứu nhờ ân
phúc Thượng Đế, do đức tin nơi Chúa Cứu Thế. Sự cứu rỗi là tặng phẩm của
Thượng Đế, chứ không do anh em tự tạo” (Eph Ep 2:8).
Thứ hai, vì sự cứu chuộc chúng ta được hoàn tất nhờ sự chết và sống lại của
Chúa Cứu Thế, chính công tác cứu chuộc của Ngài đã ban ý nghĩa cho các
Thánh Lễ của Phúc âm. Chúng gồm chủ yếu một hành động; và như Forsyth
nói, hành động của chúng là “biểu tượng của hành động của Chúa Cứu Thế,
chứ không phảilà của yếu tính của Ngài” (P.T.Forsyth, The Church and the
Sacrements, p.233). Nghĩa là ân phúc được đưa đến, không phải bằng các
yếu tố tự thân (bánh và rượu nho) nhưng là nhờ hành động hiến tế mà chúng
là những thành phần chính thức. Như thế “hiệu quả của lễ Báp-tem không
nằm trong nước, nhưng trong việc tẩy sạch; của Tiệc thánh, không phảilà
trong bánh, nhưng là trong bánh đã bị bẻ ra” (N.Micklem, Sđd, tr.245). Do
đó, các Thánh lễ thiết yếu có tính cách kịch tuồng; yếu tính của chúng là
hành động; theo chính bản tính của chúng, chúnglà các nghi lễ thiêng liêng.
Và hành động có tính cách nghi lễ của chúng không thể bị giảm thiểu hay
loại bỏ mà khỏi làm thay đổi tận gốc rễ đặc tính của chúng và làm lu mờ ý
nghĩa Phúc âm của chúng. Lúc Chúa chúng ta bẻ bánh và cầm lấy chén,
Ngài truyền lệnh cho các môn đệ chẳng những chỉ chiêm ngưỡng các hành
động của Ngài mà thôi, nhưng còn lặp lại các hành động ấy nữa: “Hãy làm
điều này...”
Giáo hội Kháng cách cổ điển, cũng chẳng kém gì giáo hội Công giáo cổ
điển, luôn luôn chủ trương rằng các Thánh lễ không phải chỉ là các biểu
tượng suông (theo nghĩa hiện đại của từ ngữ ấy), nhưng là những phương
tiện của a6n phúc Thượng Đế: chúng dẫn truyền điều mà chúng biểu tượng.
“Chúng là các hành động của Thượng Đế trong Hội thánh ngài, nhờ đó mà
hành động có hiệu quả ấy của Chúa Cứu thế, tuy chẳng bao giờ được lặp lại,
vẫn được mở rộng ra và đến thẳng với các tín hữu (Như trên, tr.244). Điều
này đã được J.S.Whale nêu rõ:
Các Thánh lễ chẳng thêm gì cho Lời Chúa cả, cũng như nụ hôn và chiếc
nhẫn chẳng thêm được gì cho lời thề nguyện. Nhưng chúng lặp lại thật cả
động lời thề nguyện ấy; chúng khiến nó có hiệu quả. “Chúng là những lời
chứng chắc chắn và hững dấu hiệu có hiệu quả của ân phúc Thượng Đế; và
thiện ý của Thượng Đế đối với chúng ta, nhờ đó Ngài vận hành một cách vô
hình trong chúng ta, và không những chỉ khơi dậy mà còn củng cố thêm cho
Đức tin mà chúng ta đặt nơi Ngài”. Mấy lời quen thuộc rút ra từ Ba mươi
chín Điều khoản này, kết hợp chặt chẽ với Lời xưng nhận Augsburg chứng
thực rằng các Thánh lễ thật sự đứng trung gian cho ân phúc Thượng Đế.
Chúng hơn hẳn việc nhắc lại suông những điều thuộc về cõi trời; Hội thánh
vốn có thể nhớ lại những điều đó mà chẳng cần đến các Thánh lễ. Chúnglà
các dấu hiệu nhờ đó Đức Thánh Linh tạo ảnh hưởng ngay trong lòng chúng
ta. Cũng như bản in Giao hưởng khúc số Năm, qua đó âm nhạc trong tâm trí
Beethoven có vật đứng trung gian để lưu truyền cho các thế hệ kế tiếp, thì
cũng thế, các Thánh lễ là “những chiếc xe tải”, là dấu hiệu và hiệu quả trùng
hợp, để bản nhạc được đánh lê và bài nhạc Thánh lễ để kết hợp hành động
biểu trưng với ân phúc mà nó chuyển tải (Christian Doctrine, pp.159-60).
Trước khi khảo xét lễ Báp-tem và Tiec thánh thật chi tiết, thiết tưởng cần
nhấn mạnh tính cách độc nhất vô nhị của hai Thánh lễ này của Phúc âm. Có
năm cái cũng được gọi là thánh lễ từng thấy trong Hội thánh Trung cổ và
vẫn còn được Giáo hội La-mã giữ lại - lễ Kiên tín (Confirmaton), lễ Thống
hối (Penance), lễ Thu giới (Orders), lễ hôn phối (Matrimony) và lễ xức dầu
trước khi chết (Extreme Unction). Tuy nhiên, các nhà Cải chánh nhấn mạnh
rằng các lễ ấy “không được kể vào số Thánh lễ của Phúc âm” vì chúng
“không có bản tính giống như các Thánh lễ Báp-tem và Tiệc thánh, vì chúng
không có một dấu hiệu hữu hình nào, cũng không phải là một nghi lễ do lệnh
truyền của Thượng Đế. Trong các sách Phúc âm, chỉ có hai Thánh lễ được
Chúa Cứu Thế của chúng ta dạy phải tuân thủ, đó là phép Báp-tem và Bữa
Tiệc Tối của Chúa” (Trích Điều khoản XXV sách Articles of Religion của
Giáo hội Anh quốc). DO đó, dù không phủ nhận ý nghĩa “thánh lễ” của các
nghi lễ khác của thời Trung cổ, chúng tôi vẫn sẽ duy trì danh từ “Thánh lễ”
cho hai Thánh lễ này. Chỉ có chúng mới có thể đòi hỏi thẩm quyền của Chúa
Giê-xu; vì cả hai đều có nền móng là một lệnh truyền và một lời hứa của
Chúa chúng ta.
II. PHÉP BÁP-TEM
Ngay từ những ngày đầu tiên, phép Báp-tem vốn là nghi lễ nhập môn của
Hội thánh Cơ-đốc ("Phép Báp-tem là một dấu hiệu của sự bắt đầu, bởi đó
chúng ta được tiếp nhận vào sự giao hảo (thông công) của Hội thánh, để sau
khi đã được ghép vào trong Chúa Cứu Thế, chúng ta sẽ được kể vào số các
con cái của Thượng Đế”. Calvin, Institutes IV, xv.1). Trong ngày lễ Ngũ
tuần, đã có ba ngàn người ăn năn quy đạo chịu phép báp-tem (Cong Cv
2:38-41). Sau đó, viên hoạn quan người Ê-thi-ô-bi (8:36-38), Cọt-nây và các
thuộc hạ của ông (10:47-48), viên giám ngục tại Phi-líp và cả nhà ông
(16:33) cũng đều chịu phép báp-tem. Cho nên phép báp-tem là thánh lễ của
sự tái sinh; nó đánh dấu sự phân biệt giữa Hội thánh với thế gian, chặng cuối
cùng của cuộc lữ hành trong Chúa Cứu Thế, khởi điểm của cuộc đời trong
Chúa Cứu Thế (N.Micklem, Sđd., tr.246).
Tân ước không để lại một phương thức cử hành phép báp-tem cá biệt nào.
Pha-lô ám chỉ rõ ràng phép báp-tem bằng cách nhận chìm trong nước khi đề
cập việc các Cơ-đốc nhân cùng chôn với Chúa Cứu Thế trong phép báp-tem
để chết đi rồi cùng sống lại với Ngài trong đời sống mới (RoRm 6:3-5).
Nhưng cách dùng chữ của Tân ước chẳng cung cấp được một cơ sở nào để
xem việc nhận chìm trong nước là phương thức duy nhất đúng. Từ ngữ Hi-
văn baptizõ có thể có nghĩa là “lặn” hay “trầm mình trong nước”; nhưng nó
cũng có thể có nghĩa là “tắm” hay “rửa” (thí dụ Mac Mc 7:4; HeDt 9:10). Lẽ
dĩ nhiênlà trong LuLc 11:38 nó chỉ ám chỉ việc rửa ta mà thôi (t/c Mat Mt
15:2 và Mac Mc 7:2, 3). Khảo sát kỹ cách dùng nó trong Tân ước, cho thấy
rõ ràng ý chính của từ ngữ ấy là “rửa” nhưng cách rửa chính xác hàm ý trong
đó không phải luôn luôn giống nhau. Trong thực hành, phép báp-tem bằng
cách đổ nước hay xối nước dường như cũng được cho phép như một biến thể
của việc dìm ngập trong nước.
Phép báp-tem cho người trưởng thành mới ăn năn quy đạo được thực hành
trong tất cả các nhánh cổ điển của Giáo hội Cơ-đốc. Nhưng về trẻ con thì
sao? Đây là một điểm gây chia rẽ trong Giáo hội Kháng cách. Hệ phái Báp-
tít khước từ làm báp-tem cho trẻ con, điều họ xem là thiếu cơ sở của Kinh
điển; các Giáo hội Kháng cách cổ điển khác không những chỉ duy trì tập
quán cổ xưa là làm phép báp-tem cho trẻ con (Infant Baptism, có khi còn
được gọilà Paedo-baptism) mà còn gán cho nó một ý nghĩa quan trọng về
vấn đề truyền giảng Phúc âm nữa.
Vấn đề này vốn không thể chỉ được quyết định bằng cách đơn giản là kêu
gọi đến phần chứng cứ trong Tân ước mà thôi. Thiết tưởng phải thừa nhận
rằng đây là một vấn đề không thể đạt được kết luận dứt khoát. Tân ước đã
chẳng có chứng liệu lịch sử dứt khoát nào về việc trẻ con trong Hội thánh
thời các Sứ đồ đã được làm phép báp-tem. Như Micklem đã vạch rõ, việc
biện minh cho phép báp-tem của Trẻ con, xét cho cùng, chỉ có tính cách thần
học chứ không có chứng liệu lịch sử. Nhưng mặt khác, trong Tân ước cũng
chẳng có bằng cớ dứt khoát nào chứng minh rằng trẻ con đã không được làm
phép báp-tem cho; và ít nhất cũng có một vài cơ sở để tin rằng chúng đã
được làm phép báp-tem. Các dữ kiện trong Tân ước đã được tóm tắt trong
Bản Tường trình của Uỷ ban về Thánh lễ báp-tem và Bữa tiệc tối của Chúa,
đã được Tổng giáo hội Anh quốc và xứ Wales Thống Nhất công bố như sau:
Như Tân ước phản ảnh về giai đoạn tiên phong của hoạt động truyền giáo,
phép báp-tem mà bộ sách ấy nói, là biểu tượng được kịch trường hoá của
một từng trải căn bản của những người đã trưởng thành mới ăn năn qy đạo,
là điều tự nhiên. Chúng ta được đọc về trọn vẹn nhiều gia đình đã được làm
phép báp-tem cho khi người chủ gia đình ăn năn quy đạo (Cong Cv 16:15,
33; ICo1Cr 1:16; 16:15), và dường như chẳng có gì cần thiết để cho rằng
toàn thể những người trong cách gia đình ấy đều không có trẻ con. Như thế,
Tân ước đã không cung cấp đủ chứng cứ hiển hiên để cho phép chúng ta nói
chắc chắn chẳng hay phép báp-tem cho Trẻ con đã được thực thi hay không.
Thỉnh thoảng có những người chống đối phép báp-tem cho trẻ con ngày nay
nêu lên tập tục này của các thế kỷ đầu tiên của Cơ-đốc giáo để chứng minh
rằng phép báp-tem cho trẻ con đã không hiện hữu vào thời Tân ước. Nhưng
cả đến ở đây, phần chứng cứ cũng chẳng có gì dứt khoát. Bên Đông phương
đời xưa, trẻ con vốn không chiếm được địa vị nổi bật như bên Tây phương
hiện nay, và theo lẽ tự nhiên, những khu1c sách đề cập vấn đề phép báp-tem
cho Trẻ con vốn hiếm hoi...
Ngay từ ban đầu, phép báp-tem vốn được xem như một nghi lễ tương tự như
phép cắt bì vậy (RoRm 4:11 và CoCl 2:11, 12), mà phép cắt bì thì được thực
hiện đối với trẻ con có cha mẹ là người Do-thái. Lẽ dĩ nhiên, cũng như các
nghi lễ khác của Do-thái giáo, phép cắt bì vốn bị hạn chế đối với những
người nam mà thôi. Nhưng trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, thì chẳng có phân
biệt nam nữ (GaGl 3:28), và điều rất khó không có thể xảy ra là trẻ con của
các cha mẹ là Cơ-đốc nhân, bất luận nam nữ, đều được làm phép báp-tem
cho trước tiên. Cho dù sự việc có là như thế hay không, điều rõ ràng là Phao-
lô xem các trẻ con của những cha mẹ là Cơ-đốc nhân đều thuộc về cộng
đồng Cơ-đốc giáo,là lãnh vực trên đó Chúa Cứu Thế đang trị vì, trong đó ân
phúc Thượng Đế đã được từng trải (t/c ICo1Cr 7:14 chỗ con cái của người
mẹ là Cơ-đốc nhân được mô tả là “thánh hoá rồi"). Ngày nay, chúng ta tìm
thấy một phần ý nghĩa của phép báp-tem cho Trẻ con là trong trường hợp
này (Pp.4-5).
Thế thì đâu là ý nghĩa của phép báp-tem? Có hai quan niệm sai lầm phổ biến
cần được đề cập vắn tắt. Một là phép báp-tem không phải lễ Lễ Dâng con.
Hai việc này là hai đối cực về bản tính và điểm nhấn mạnh. “Trong Lễ Dâng
con, chính các cha mẹ là những tác nhân, còn trong phép Báp-tem thì đó là
Chúa Cứu Thế thông qua Hội thánh Ngài, trong Lễ Dâng con, chính các cha
mẹ tuyên bố điều họ sẽ làm, còn trong phép báp-tem, thì chính Chúa Cứu
thế, qua người đại diện cho Ngài, là vị mục sư, ẵm đứa trẻ trong vòng tay
mình và công bố những gì Ngài đã và sẽ làm cho đứa trẻ; trong Lễ Dâng
con, chính các cha mẹ là những người hứa nguyện, còn trong phép báp-tem
thì người hứa là Chúa Cứu Thế” (N.Micklem, Sđd., tr.250).
Thứ hai, phép báp-tem không phải là việc xưng nhận đức tin. Nó rất có thể
là một cơ hội để xưng đức tin; và lẽ tất nhiên là nếu không có đức tin, nó sẽ
vô hiệu. Cả người trưởng thành lẫn trẻ con đều chịu phép báp-tem để được
gia nhập gia đình của đạo - là Hội thánh xưng nhận đạo. Nhưng điều khiến
cho phép báp-tem có ý nghĩa là ân phúc Thượng Đế, chứa không phải là đức
tin của con người. Biểu tượng thanh tẩy đề cao hành động của Thượng Đế -
chứ không phải là hành động của chúng ta. Phép báp-tem cho trẻ con nằm
ngay trong việc này.
Sở dĩ hệ phái Báp-tít vĩ đại toàn cầu được gọi tên như thế vì các thành viên
của nó nhấn mạnh thật phải lẽ rằng muốn trở thành một Cơ-đốc nhân, thì
một người nam hoặc nữ phải là một tín hữu... Như thế các tín đồ áp-tít
không thừa nhận một phép báp-tem nào khác hơn là phép báp-tem mà họ
thực hiện đối với các ứng viên đã đến tuổi biết suy xét rồi. Họ lý luận rằng
làm báp-tem cho một đứa trẻ bất năng bất lực mới chỉ có vài tuần tuổi mà
thôi và rõ ràng là chưa thể có được loại đức tin biết đáp ứng của một tín hữu,
là điều vô nghĩa và tệ hại. Đối với lý luận này thì truyền thống phổ quát của
Cơ-đốc giáo trả lời, không phải là bằng cách bó hẹp đức tin của một người
trưởng thành tìm cầu phép báp-tem lại, nhưng bằng việc nhấn mạnh trên sự
cứu chuộc của chúng ta như một sự kiện khách quan ngay tại điểm mà đời
sống con người vẫn chưa có được câu trả lời chủ quan mà cá nhân người
chịu phép báp-tem có thể có được...(J.S.Whale, Sđd., tr.165). Do đó, phép
báp-tem có nghĩa là ân phúc Thượng Đế vốn đi trước đức tin. Chỗ đứng của
chúng ta trước mặt Thượng Đế vốn được đặt trên nền móng không phải là do
những gì chúng ta làm, nhưng là do những gì Ngài đã làm. Lời cầu nguyện
của chúng ta là xin Ngài tiếp nhận chúng ta “không phải bằng việc cân nhắc
các công đức của chúng ta, nhưng là bằng việc tha thứ các vi phạm của
chúng ta”. “Anh em được cứu nhờ ân phúc Thượng Đế, do đức tin nơi Chúa
Cứu Thế. Sự cứu rỗi là tặng phẩm của Thượng Đế chứ không do anh em tự
tạo. Không phải là kết quả của công đức anh em, nên chẳng ai có thể khoe
khoang” (Eph Ep 2:8-9).
Toàn thể truyện tích của Cựu ước là sự tích về ân phúc Thượng Đế được ban
vô điều kiện cho dâ Y-sơ-ra-ên, dù họ vốn không xứng đáng để nhận được.
Họ là một tuyển dân, nhưng không phải là nhờ bất kỳ công đức nào của họ
cả. Thượng Đế đã không chọn dân tộc cá biệt này làm công cụ để Ngài tự
bày tỏ mình ra cho cả thế gian bởi vì họ khá hơn các dân tộc khác, hoặc vì
họ vốn sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Ngài hơn, cũng không phải vì Ngài
phẩi cần đến họ mới hoàn tất được chủ ích cứu chuộc của Ngài trên đất này.
Ngài đã chọn họ như một hành động của ân phúc. Họ đã không sẵn sàng đáp
ứng và vâng theo ý chỉ Ngài, mà xuyên suốt giòng lịch sử của dân tộc ấy còn
là một câu chuyện liên tục về bội đạo và phản loạn. Thế nhưng Thượng Đế
đã chẳng bao giờ từ bỏ họ. Dù họ thất tín với Thượng Đế, Ngài đã chẳng bao
giờ thất tín với họ tuy họ xem nhẹ và làm nhục Ngài; Ngài vẫn là Cứu Chúa
và là Đấng Giải phóng toàn năng của họ.
Mối liên hệ giữa Thượng Đế với Dân Ngài đời xưa là một mối liên hệ giao
ước. Nghĩa là cả hai được ràng buộc với nhau bằng một thoả ước, một mối
ràng buộc hôn nhân, trong đó mỗi bên hứa nguyện trung thành và yêu
thương nhau. Nhưng giao ước này là một giao ước của ân phúc Thượng Đế
(Về một phần thảo luận đầy đủ về Giao ước xin xem quyển sách của tôi,
nhan đề “The Nature and Authority of the Bible” (James Clake) ch.VI.ii.1)
Thượng Đề đã “cưới” dân Y-sơ-ra-ên làm vợ, và Ngài đã chăm sóc dân ấy
lúc thời cơ thuận tiện cũng hư khi dặp vận rủi ro. Dân Y-sơ-ra-ên có thể đã
phụ Ngài; nhưng lòng nhân từ thương xót của Ngài đã chẳng bao giờ phụ họ.
Dân Ngài có thể bất trung, nhưng Lời Thượng Đế vẫn là chắc chắn, khiến họ
đã phải nói; “Ngài không đối xử chúng tôi theo tội lỗi chúng tôi cũng không
baó trả chúng tôi tùy sự gian ác của chúng tôi”.
Nhưng Lời của ân phúc Thượng Đế cho dân Ngài này, bản giao ước do ân
phúc Thựơng Đế mà họ nhờ đó để sống này vốn được cấn chứng bằng một
hành động có tính cách nghi lễ - phép cắt bì. Đây là dấu hiệu bên ngoài và
hữu hình, bởi đó nó được liên tục gìn giữ dưới mắt họ. Con cái người Y-sơ-
ra-ên vốn không nằm ngoài bản giao ước kia cho đến khi nào họ chọn bước
vào đó khi đã đến tuổi khôn lớn, biết phân biệt phải trái. Nó vốn là quyền
trưởng nam bất khả chuyển nhượng của người ấy. Người ấy đã được hưởng
một phần di sản phong phú, không phải vì đã lao khổ để chiếm hữu được nó,
mà chỉ vì Thượng Đế đã ban nó vô điều kiện cho Dân tộc mà người ấy được
sinh ra trong đó. Và việc làm phép cắt bì cho người ấy lúc được tám ngày
tuổi, là dấu hiệu và là dấu ấn chứng thực cho sự kiện ấy. Nó đóng dấu để
người ấy trở thành một thành viên của Dân tộc đã lập Giao ước với Thượng
Đế.
Khi chúng ta chuyển từ Cựu ước sang Tân ước, chúng ta vẫn thấy cùng một
luận đề ấy được đề cập phổ biến. Con người được đưa đến với Thượng Đế
do Thượng Đế đã đến với loài người. Trong Người Thợ Mộc thành Na-xa-
rét Thượng Đế toàn phúc đã thăm viếng và cứu chuộc dân Ngài. Và trong ẩn
dụ về các Tá điền trong vườn nho (Mat Mt 20:1-16), Chúa Giê-xu đã chứng
minh rằng chính ân phúc đó của Thượng Đế, chứ không phải công đức của
con người, là nền tảng của mối liên hệ giữa chúng ta với Thượng Đế.
Đây là truyện tích về lòng hào hiệp đơn phương của một ông chủ, do thương
hại những người làm công cho mình, đã trả cùng một mức lương cho những
người chỉ mới lao động có một tiếng đồng hồ, với những công nhân đã lao
khổ suốt ngày. Nhưng muốn hiểu câu chuyện, ta phải đặt nó trong bối cảnh
của nó. Các môn đệ Chúa vừa mục kích một thanh niên giàu có buồn rầu bỏ
đi, vì không thể quên được số của cải đang đứng sừng sững giữa bản thân
anh ta với thân phận của người làm môn đệ Chúa. Rồi qua Phê-rơ, họ hỏi
Chúa chẳng hay phần thưởng dành cho họ sẽ là gì; họ đã chọn điều mà
chàng thanh niên nọ khứơc từ: “Thưa thầy, chúng con đã từ bỏ tất cả để theo
Thầy, thế chúng con sẽ được gì?” Ẩn dụ vừa kể trên nhằm mục đích dẫn tới
câu hỏi này. Trước hết, Chúa Giê-xu bảo đảm với họ và với tất cả những
người khác dám vì Chúa Cứu Thế mà hi sinh, rằng họ sẽ nhận được rất
nhiều phần thưởng; nhưng Ngài tiếp tục vạch rõ cho họ thấy rằng đó không
phải là một câu hỏi mà người môn đệ nên nêu ra. Nghe ra, câu hỏi ấy có vẻ
là của một người quá tự phụ tự mãn. Nó cho thấy một thái độ do tinh thần
muốn xem việc phục vụ của mình cho mình cái quyền đòi hỏi một phần
thưởng. Ngài muốn dạy Phê-rơ và anh em ông rằng loại thần học nhỏ mọn
của nghề kế toán, với cách đánh thăng bằng công lao với phấn thưởng đó
chẳng hề có chỗ đứng nào trong nền kinh tế của Thượng Đế. Loài người
được Thượng Đế tiếp nhận không phải trên cơ sở là bất cứ việc gì họ đã làm,
nhưng là do lòng tốt của Thượng Đế. Sự cứu rỗi chỉ là do ân phúc Thượng
Đế mà thôi, chứ không phải là nhờ công đức, để chẳng ai có thể khoe
khoang.
Cũng như trong sinh hoạt của Dân Y-sơ-ra-ên đời xưa, Lời ân phúc của
Thượng Đế đã được biểu hiện cho mọi người đều nhìn thấy trong một định
chế là phép cắt bì như thế nào thì cũng thế, trong sinh hoạt của dân Y-sơ-ra-
ên Mới, là Hội thánh Cơ-đốc, nó cũng đã được ấn chứng bằng thánh lễ báp-
tem. Phần biện minh cho phép báp-tem cho trẻ con nằm ngay trong đó.
Trong phép báp-tem cho trẻ con, chỉ có sự cứu rỗi nhờ ân phúc Thượng Đế
là được tả vẽ, như nó đã được tả vẽ ở mọi chỗ khác trong sinh hoạt của Hội
thánh. Làm phép báp-tem đúng vào lúc ấy, khi người nhận báp-tem chẳng có
sự đáp ứng cá nhân nào cả, là chúng ta tuyên bố rằng ân phúc Thượng Đế đã
đến trước đức tin của con người; rằng chính là nhờ ân phúc ấy chứ chẳng
phải nhờ điều gì mà đứa trẻ ấy có thể làm, mà nó cũng như tất cả mọi người
đã được cứu chuộc; rằng bởi ân phúc Ngài, Thượng Đế đã nhờ CHúa Cứu
Thế làm phương tiện để cứu chuộc chúng ta mà chẳng cần phải hỏi ý kiến
hay xin phép chúng ta, và Ngài đã cung cấp nó cho chúng ta không phải chỉ
trước khi chúng ta đã đủ tuổi để biết được chút chi về việc ấy, mà ngay trước
khi chúng ta hiện hữu nữa kia. Như thế, phép báp-tem cho trẻ con công bố
và phơi bày ra trước mắt mọi người trong Hội thánh, điều mà chẳng có điều
gì khác có thể công bố và phơi bày ra được sự kiện rằng điều mà Thượng Đế
cung ứng cho tội lỗi chúng ta đó vốn có một đời sống khách quan hoàn toàn
đối lập đối với việc chúng ta đáp ứng lại với nó; rằng Chúa Cứu Thế là
Chiên Con đã bị giết từ buổi sáng thế. Như B.L.Manning viết: “Một lần
chúng ta làm báp-tem cho một đứa trẻ, là chúng ta công bố cho cả thế giới
theo một cung cách trang trọng nhất rằng Thượng Đế làm gì cho chúng ta là
tuỳ ý Ngài, chứ không phải là nhờ công đức của chúng ta và thậm chí cũng
chẳng cần cho chúng ta hiểu biết nữa. Có lẽ là hơn bất cứ ở đâu khác, trong
phép báp-tem, Thượng Đế đang gởi đến cho chúng ta tình yêu thương của
Ngài, là khi chúng ta hãy còn là tội nhân, thì Chúa Cứu Thế đã chịu chết
thay cho chúng ta (Why not Abandon the Chrusch? p.47).
Như thế, phép báp-tem là một dấu hiệu về một dấu ấn của giao ước do ân
phúc Thượng Đế. Nó liên hệ với bản giao ước mới y như phép cắt bì có liên
hệ với giao ước cũ vậy.
Chúa Cứu Thế đã vì chúng ta chịu chết, và do công lao Ngài mà Hội thánh
nảy sinh. Toàn thể conc ái các tín hữu đều ra đời nhờ và trong mối giao hảo
(thông công) của Hội thánh. Rất có thể là chúng vẫn chưa phạm tội hoặc có
đức tin riêng; điều cần thiết cho chúng sau đó, là đồng ý và tiếp nhận phần di
sản của chúng trong Chúa Cứu Thế và Hội thánh Ngài, nhưng có một sự
kiện là di sản của chúng không phải là di sản của người ngoại đạo. Có người
được sinh ra trong tự do, có người chỉ được tự do sau khi đã phải trả giá thật
đắt; các con cái của Hội thánh được sinh ra trong tự do. Chẳng hề có ai bảo
rằng Thượng Đế yêu thương một số con cái này của nhiều hơn một số khác
hay phủ nhận việc Chúa Cứu Thế đã chết là vì tất cả mọi người mà khỏi
phạm tội lộng ngôn; nhưng phép báp-tem do Trẻ con tương ứng với các sự
kiện thuộc linh là các con cái của Hội thánh được sinh ra trong phần di sản
của Cơ-đốc giáo, và rằng các lời hứa của Thượng Đế cho các Cơ-đốc nhân
vốn không phải chỉ dành cho họ mà thôi, nhưng còn cho hậu duệ của họ nữa
(N.Micklem, Sđd., tr.249).
Hệ quả là phép báp-tem cho trẻ con có thể được thực hiện rất phải lẽ chỉ cho
con cái của các tín hữu mà thôi, như Bản Tuyên Ngôn Savoy năm 1658 công
bố và nhấn mạnh. (Xem Sđv.Decl., ch.XXIX,iv.). Tuy nhiên R.W.Dale chủ
trương rằng, vì phép báp-tem là một dấu hiệu của công lao đã hoàn tất là
Chúa Cứu Thế đã chịu chết vì toàn thể nhân loại nó không thể bị khước từ
đối với bất kỳ một đứa trẻ nào (Manual of Congregational Principles, Book
III). Lập trường này đã được toàn thể các tín đồ Giáo hội Tự do chấp nhận
suốt hậu bán thế kỷ sau này, nhưng kết quả của tập quán lan tràn, là phép
báp-tem không phân biệt đã thật sự khiến thánh lễ này bị mất đi cái ý nghĩa
là cánh cửa bước vào Hội thánh. Người Thanh giáo đã phấn đấu để loại trừ
cái ý niệm rằng Giáo hội có chung ranh giới với quốc gia, là điều mà mỉa
mai thay, những người nối nghiệp họ lại sa vào khi khiến cách hành đạo này
cóhàm ý đúng như thế. Chiếc bánh xe đã quay tròn một vòng. Như toàn thể
quý vị mục sư có lương tâm đều biết quá rõ, giải pháp cho vấn đề này không
hề đơn giản chút nào. Có lẽ nào quý vị ấy lại từ chối bất luận một nghi lễ
Cơ-đốc giáo nào cho bất kỳ một bậc ca mẹ nào là Cơ-đốc nhân thành tâm
muốn nó được thực hiện cho các con cái họ? Khi mọi quan niệm mê tín và
hầu như ma thuật về thánh lễ đều được cho phép, thì người ta cần phải tính
đến bộ phận Cơ-đốc giáo gồm đa số dân chúng vốn chỉ còn là dấu vết của
Cơ-đốc giáo mà thôi, tức là số người nằm ngoài tầm tiếp xúc với sinh hoạt
và sự thờ phượng thường xuyên của các Hội thánh. Ít nhất thì việc phân biệt
cũng rất khó khăn. Đúng ra thì ai là con cái của các tín hữu, còn ai thì không
phải? Định chuẩn rõ rệt là thành viên có tương thông tương giao đầy đủ với
Hội thánh. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể khước từ một biện pháp tín
ngưỡng nào đó với bất kỳ một bậc làm cha làm mẹ nào thật lòng muốn cho
con mình được nhận phép báp-tem theo Cơ-đốc giáo?
Điểm then chốt của vấn đề chắc chắn là trừ phi khi đứa trẻ thật sự được nhận
vào trong mối giao hảo với Hội thánh và được trưởng dưỡng trong đạo của
Hội thánh, thì phép báp-tem sẽ là vô nghĩa. Khi nào các bậc cha mẹ đều là
những thàh viên đang tương thông tương giao với gia đình của đạo thì chỉ
lời yêu cầu của họ mà thôi thiết tưởng đã là đủ. Nhưng phải làm thế nào đối
với những đứa trẻ mà cha mẹ chúng muốn cho con cái họ được làm phép
báp-tem theo Cơ-đốc giáo cho, nhưng bản thân chúng lại không sống trong
mối giao hảo với Hội thánh? Những lời khẩn khoản của họ có thể đựơc xem
là đầy đủ khôn, nếu, như trường hợp đã quá thường xảy ra, là họ chẳng
màng bén mảng đến trước cửa nhà thờ, cho đến khi đứa con kế tiếp của họ ra
đời? Cuối cùng thì câu trả lời dường như có tính cách mục vụ chứ không
thuộc phạm vi nghi thức. Nếu cách hành đạo hiện nay của chúng ta cần được
tiếp tục, thiết tưởng có hai đều cần thiết để bảo đảm cho phép báp-tem
không trở thành là một dấu hiệu “rỗng nghĩa”. Một là những bậc làm cha mẹ
phải được giáo huấn về ý nghĩa của thánh lễ này, và phải áp đặt một số bó
buộc trên họ. Đây là một môi trường mà công tác tryền bá Phúc âm có thể
thu hoạch được nhiều kết quả. Hai là, khi cả cha lẫn mẹ của đứa trẻ đều
không phải là thành viên đang tương thông tương giao với Hội thánh, thì
những người đỡ đầu được chọn trong số các thành viên đang tương giao
tương thông với Hội thánh cần nhận trách nhiệm trưởng dưỡng đứa trẻ trong
sự giao hảo với Hội thánh và chỉ giáo nó trong Cơ-đốc giáo.
Trong cả hai trường hợp, điều cần thiết cho đứa trẻ là khi đã đến tuổi lớn
khôn, phải được cộng đồng Cơ-đốc giáo xác nhận (Trong nghi lễ xác nhận
cổ truyền, điểm nhấn mạnh là trên hành động của Thượng Đế, chứ không
phải là của loài người. Nó là việc xác nhận, không phải là lời thề nguyện lúc
chịu phép báp-tem, nhưng là của một con người - nghĩa là việc tăng cường
sức lực cho một người bởi ân tứ của Đức Thánh Linh. Tuy nhiên, sách Cầu
Nguyện Phổ cập đã nhấn mạh rất đúng trên việc làm mới lại những lời thề
nguyền khi chịu phép báp-tem như là điều kiện thiết yếu: “Giờ đây, các trẻ
con đạt tuổi hiểu biết “phải” được phê chuẩn và xác nhận y như thế. Xem
Bài tựa của Lễ xác tín (the Preface of the Order of Confirmation) danh nghĩa
thành viên trước khi được nhìn nhận là có các đặc quyền và trách nhiệm của
một thành viên được tương thông tương giao đầy đủ. Chỉ đến chừng đó,
phép báp-tem mới hoàn tất, ân phúc tể trị của Thượng Đế phô bày ra mới
được trách nhiệm cá nhân đối với đạo của người ấy đáp ứng: “Anh em được
cứu (là) nhờ ân phúc Thượng Đế” (Về các mối liên hệ giữa phép báp-tem và
phép xác tín, D.E.W.Harrison nói: “Chỉ trong điều kiện cả hai đều còn được
xem thiết yếu chỉ là một thì về phương diện thần học, người ta mới có thể
xét lẽ công bằng cho cả thánh lễ này lẫn thánh lễ kia” Sđd., tr.111).
Với tư cách là một thánh lễ nhập môn Hội thánh Cơ-đốc, phép báp-tem phải
được cử hành vào một buổi nhóm thờ phượng đầy đủ của Hội thánh chứ
không phải là một buổi nhóm riêng tây, ngoại trừ những trường hợp cực kỳ
cấp bánh (Nếu vì một lý do khẩn cấp phép báp-tem được cử hành tại tư gia,
một số đại diện của Hội thánh phải có mặt cùng với vị mục sư. Việc này
cũng áp dụng cho các Thánh lễ Tiệc thánh trong bệnh viện). Thì giờ thông
thường là vào buổi nhóm thờ phượng sáng, sau bài học Tân ước hoặc Bài
giảng. Tuy nhiên, nó có thể xảy ra rất thích hợp khi bắt đầu buổi nhóm thờ
phượng. Trong khi hát bài thánh ca về phép báp-tem vị mục sư tiến hành lễ
nhận bình nước để làm phép báp-tem được đưa đến. Mat Mt 28:18-20 và
Mac Mc 10:13-16 được đọc lên và ý nghĩa của thánh lễ được trình bày như
một lời răn bảo vắn tắt. Các cha mẹ hay người đỡ đầu, được yêu cầu xưng
nhận đức tin của họ và hứa dạy dỗ đứa trẻ trong chân lý và các nghĩa vụ của
Cơ-đốc giáo, và đưa đứa trẻ vào sự nuôi dưỡng và răn dạy của chúa và trong
sự giao hảo với Hội thánh. Bây giờ thì lời cầu nguyện được dâng lên, và nó
phải gồm có việc kêu cầu Đức Thánh Linh (epiklẽsis) thánh hoá đứa trẻ chịu
phép báp-tem và cho nước được sử dụng có hiệu quả thánh hoá, sau đó vị
mục sư và cả hội chúng cùng đọc Bài Cầu Nguyện của Chúa. Rồi cả hội
chúng được yêu cầu đứng lên như một dấu hiệu cho việc họ nhân danh
Chúa, tiếp nhận đứa trẻ này; vị mục sư nhận đứa trẻ từ tay cha nó, hỏi tên họ
nó; và nước được đổ hay rảy trên đầu đứa trẻ nhân danh Đức Chúa Cha. Đức
Chúa Con và Đức hánh Linh Sau khi chúc phước cho đứa trẻ, vị mục sư
tuyên bố tiếp nhận nó vào gia đình của đạo và khuyên hội chúng cầu nguyện
để nó sẽ được nuôi dưỡng và lớn lên mạnh mẽ, và cứ tiếp tục làm người đầy
tớ trung tín trọn đời. Rồi đứa trẻ được trao lại cho người mẹ với một lời uỷ
thác vắn tắt cho cha mẹ nó, một bài cầu nguyện về phép báo-tem được dâng
lên, rồi vị mục sư, hoặc là tiến hành Lễ Thờ phượng công cộng, hoặc giải tán
Hội thánh với Lời Chúa Phước.
III. BỮA TIỆC TỐI CỦA CHÚA
Như phép báp-tem đánh dấu khởi điểm của đời sống Cơ-đốc nhân thể nào,
thì cũng thế, Tiệc thánh cung cấp phần tiếp tục của nó. Nó là phương tiện tối
cao của ân phúc Thượng Đế: ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào khác, Thượng
Đế đã tự hiến thận cho loài người; ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào khác,
con người phải tự hiến thân cho Thượng Đế. Trong thánh lễ này, “chúng tôi
tiếp nhận điều Thượng Đế ban cho, trở thành người mà Thượng Đế khiến
chúng tôi trở thành (bởi ân phúc Thượng Đế chứ không phải nhờ công đức),
và dâng nó trở lại cho Ngài. Ở đây, sự thờ phượng là điều lý tưởng mà nó
phải trở thành - trả lại cho Thượng Đế điều vốn từ Thượng Đế mà ra
(C.H.Dodd, “The Sacrament of the Lord's Supper in the New Testament”,
Christian Worship, ed.N.Micklem, p.82). Vì lý do này, Bữa Tiệc Tối của
Chúa là hành động trung tâm của sự thờ phượng theo Cơ-đốc gáo. Chẳng gì
có thể so sánh với nó được. Nó buộc chặt chúng ta lại bằng một sợi dây xích
không đứa đoạn của chính lời chứng tại Phòng cao; nó nâng cao chúng ta
vượt thời gian để vào các nơi trên trời, cũng tham dự bữa Tiệc Cưới Chiên
Con:
Và sau cái đêm tối của sự phản bội đó
Chúng ta được kết hợp lại khi (Chúa) tái lâm
Bằng một sợi dây xích phúc lành là nghi lễ yêu thương, cho tới lúc Ngài đến.
Trong nghi lễ này, tất cả những gì là giàu có, phong phú của phần di sản của
Cơ-đốc giáo chúng ta đều được tập trung lại.
Trước hết có cái nhìn lui trở về Bữa Tiệc Tối cuối cùng và Đồi Gô-gô-tha -
“để kỷ niệm ta”; thứ hai, có cái nhìn về phía trước, vào “Bữa Tiệc Cưới
Chiên Con” trong Nước Trời đã hoàn tất - “cho tới lúc Ngài đến”; thứ ba, có
việc được nuôi dưỡng bằng đức tin trong Chúa Cứu Thế - “hãy nhận và ăn
đi, vì ây là thân thể Ta”, thứ tư, có Hội thánh là Thân thể Chúa Cứu Thế -
“như Cha Ta đã sai ta thể nào, thì Ta cùng sai các ngươi thể ấy” thứ năm,
nghi lễ này là Tiệc thánh, là lời cảm ta của Hội thánh trong việc xưng nhận
Danh Đấng Cứu Chuộc, sacrificium laudis; nó chỉ có thể là sacrifium
propitiatorium khi nó có thể được nhìn thấy một cách thần bí là việc mở
rộng Sự Thượng Khó vào trong thời gian. Trên hết và trước hết có Huyền
Diệu thật sự của chính Chúa như điều chắc chắn đã xảy ra trong đêm cuối
cùng mà Ngài đã bị phản nộp, ấn chứng cho lời hứa của Ngài với các tín hữu
và tự phó mình vì những người thuộc về Ngài (N.Micklem, Sđd., tr.252).
Tuy nhiên, Bữa Tiệc Tối của Chúa không đứng một mình. Nó là tuyệt đỉnh
của sự thờ phượng theo Cơ-đốc giáo, là một Thánh lễ của Lời Chúa, là một
dấu hiệu và dau ấn của Phúc âm hàm chứa trong Thánh Điển, đã được Bài
giảng công bố, được các thánh ca và bài tín điều xưng nhận. “Nó là Phúc âm
được biến thành hành động đã khiến cho thánh lễ ấy cũng biến thành hành
động” (P.Carnegie Simpson, The Evangelical Church Catholic, p.85).
Nguyên tắc về tính bất khả phân chia của Lời Chúa và Thánh lễ nằm ngay
tại tâm điểm của sự thờ phượng của Giáo hội Cải chánh. Calvin nói: “Việc
phục vụ (cử hành). Thánh lễ đích thực không thể đứng vững ngoài Lời
Chúa”. Như Nathaniel Micklem vạch rõ, “điều này không nhất thiết hàm ý
rằng nếu không có truyền giảng thì cũng không thể có việc cử hành phép
báp-tem hay Tiệc thánh, nhưng có nghĩa là ngoại trừ trong một cộng đồng ở
đó Lời Chúa đã được truyền giảng và được hết lòng tiếp nhận, thì không thể
có các Thánh lễ đích thực của Cơ-đốc giáo” (Sđd., tr.253). Do đó, buổi
nhóm lại để cử hành Tiệc thánh gồm hai phần chính, đi trước là phần tụng
niệm Lời Chúa” dẫn tới “phần tụng niệm tại Phòng cao” (Trong cách tụng
niệm đời xưa, chúng được gọi là “phần tụng niệm của những người học giáo
lý” và “phần tụng niệm của người trung tín"). Phần sau, là Tiệc thánh đích
thực không thể được xem như một hành động thờ phượng phân biệt, lại càng
không thể được xem như một phần phụ thêm của buổi nhóm lại để truyền
giảng. Lời Chúa và thánh lễ cùng họp lại để cấu thành một toàn thể hữu cơ.
Vì lý do ấy, nên không thể có gián đoạn giữa hai phần này. Những người
đến thờ phượng mà không tham dự Tiệc thánh có thể ra về lúc một bài thánh
ca được hát lên, hoặc lúc người đàn phong cầm dạo một đoạn nhạc tuỳ hứng
báo hiệu phần truyền giảng đã kết thúc và các trưởng lão hay chấp sự đến
đứng vào chỗ của họ tại Bàn Tiệc thánh.
Do đó, việc cử hành Tiệc thánh phải được xem là nằm trong bốic ảnh của
một hành động thờ phượng đầy đủ trong đó, nó là tuyệt đỉnh. Buổi lễ Tiệc
thánh trọn vẹn gồm bốn phần liên quan chặt chẽ với nhau Thứ nhất, có việc
tiếp cận bằng lời ca ngợi tán tụng và ăn năn thống hối. Thứ hai, có chức vụ
về Lời Chúa trong các Bài học Thánh Kinh và Bài Giảng, với lời cầu thay và
ca tụng. Điều này hoàn tất phần đầu của buổi nhóm lại, điều mà Maxwell
gọi là “Phần tụng niệm Lời Chúa”. Phần thứ ba của buổi lễ này có đặc điểm
tham gia bằng lời nói và việc làm tại Phòng cao. Trong phần thứ tư, họ họp
nhất với nhau trong một hành động tương thông tương giao cuối cùng qua
việc phân phát và tiếp nhận bánh và rượu (nho).
Cấu trúc và nội dung của “Phần Tụng niệm Lời Chúa” thì đã được thảo luận
rồi (Xem lại chương III và IV). Hình thức của nó là theo Kinh điển, được
các phần ký thuật trong Tân ước về định chế (Tiệc thánh) xác nhận, nhất là
phần đầu trong ICo1Cr 11:23-25. Trong các phần ký thuật này, chúng ta
thấy điều mà Dom Gregory Dix mô tả là một mô hình gồm bảy hành động:
“Chúa chúng ta (1) lấy bánh, (2) “tại ơn” Thượng Đế rồi (3) bẻ ra, (4) phân
phát và bảo...; sau khi ăn tối, Chúa (5) cầm chén (6) tạ ơn rồi (7) trao cho các
môn đệ Ngài và bảo” (The Shope of the Liturgy, p.48. Hành động (6) ám chỉ
các phần ký thuật cộng quan, đề cập một lần tạ ươn riêng khi Chúa nâng
chén). Như Dix vạch rõ trong cách tụng niệm thông dụng, bảy hành động
này được lặp lại thành bốn, trong mỗi giai đoạn, bánh và chén (rượu) được
trao cùng một lần. Do đó, tất cả các phần tụng niệm cổ điển đều gồm bốn
hành động tương ứng với các hành động của Chúa chúng ta tại Phòng cao:
“Ngài cầm bánh”, “Ngài tạ ân Thượng Đế”, “Ngài bẻ ra” và “Ngài trao
(phân phát)”. Những hành động này, cùng với những lời lẽ nhằm thiết lập
định chế (về Tiệc thánh) nhằm bảo đảm cho chúng, đều là những phần chính
thức của thánh lễ, sẽ là một thiếu sót nếu có phần nào trong đó bị bỏ qua:
Căn cứ vào Thánh Kinh để làm chuẩn, chúng ta không thể bỏ đi hay thu nhỏ
bất cứ phần nào trong hành động tượng trưng vốn là chính yếu tính của nghi
lễ này.
Thiết tưởng nói như thế không hề là nhấn mạnh quá đáng sự kiện này với
các tín đồ của iáo hội Tự do ngày nay. Những lần cử hành Tiệc thánh có
khuyết điểm nghiêm trọng là việc rất phổ biến trong nhiều chi hội của chúng
ta. Lý do chẳng cần phải tìm ở đâu xa. Trong phần đào tạo những người sẽ
thi hành chức vụ (mục sư) của chúng ta - khá đáng khâm phục về các
phương diện Giải Kinh, Thánh Sử, Thần học hệ thống, và Tuyên đạo pháp -
lại hầu như hoàn toàn bỏ qua Tụng niệm học. Quý vị sắp đựơc thụ phong
của Anh quốc giáo mà Sách Cầu nguyện đã cung cấp cho họ một phần tụng
niệm thật đầy đủ rồi, vốn còn được huấn luyện rất kỹ về các nguyên tắc tụng
niệm và sử ký; còn quý vị mục sư Giáo hội Tự do vốn có trách nhiệm sắp
xếp sự thờ phượng mà mình hướng dẫn, lại thường từ giã trường cao đẳng
với rất ít hoặc chẳng có chút kiến thức gì về nền thần học thờ phượng hay
phần di sản về tụng niệm hết sức phong phú của Cơ-đốc giáo giới. Sự thờ
phựơng của chúng ta sẽ không thể nào xứng đáng với các truyền thống vĩ đại
được sự đàp tạo huấn luyện đầy đủ về tụng niệm.
Nhưng việc cử hành khiếm khuyết Tiệc thánh không phải luôn luôn cho thấy
tình trạng khiếm khuyết về nghiệp vụ (incompetence) của vị mục sư; chúng
có thể là hậu quả của việc nhấn mạnh quá đáng một cách độc đoán trên một
vài thành phần của nghi lễ ấy, nhưng hầu như lại loại trừ hẳn những thành
phần khác. Một thí dụ đáng kinh ngạc thuộc loại nhấn mạnh quá đáng đã xảy
ra trong quyển sách có thể nói là xuất sắc của J.Alan Kay, nhan đề Bản tính
của sự thờ phượng theo Cơ-đốc giáo (The Nature of Christian Worship).
Tiến sĩ Kay, mà chẳng ai dám tố cáo là dốt về khoa tụng niệm, rõ ràng là đã
giới hạn hành động rất có ý nghĩa của Tiệc thánh vào việc những người thờ
phượng tiếp nhận các yếu tố (bánh và chén). Ông bảo với chúng ta rằng đây
là điều mà chính Chúa Giê-xu đặc biệt nhấn mạnh cho chúng ta:
Chẳng có gì để nghi ngờ là Ngài từng biết qua mọi chi tiết về nghi lễ thông
thường, dù đó là bữa tối Chaburah(?) hay một loại bữa ăn nào khác; nhưng
Ngài đã chẳng để ý gì đến tất cả các bữa ăn ấy. Chẳng có gì để nghi ngờ là
Ngài đã “cầm lấy bánh”; nhưng điều đáng thắc mắc đặt vấn đề là chẳng hay
Ngài có muốn nhấn mạnh trên hành động ấy để biến nó thành một lễ dâng
hiến (an offertory) hay không. Chẳng có gì để nghi ngờ là Ngài đã “tạ ân
Thượng Đế”, nhưng Ngài vốn chẳng chú ý gì đặc biệt đến việc ấy, hay lý
giải nó cách nào khác hơn là lời tạ ân, thông thường trước một bữa ăn, tuy
làm như thế là một việc hết sức dễ dàng đối với Ngài. Chẳng có gì để nghi
ngờ là Ngài đã bẻ bánh; nhưng đã chẳng có dấu hiệu gì cho thấy Ngài làm
như thế là vượt quá sự cần thiết thông thường trước khi phân phát nó...Điều
mà Ngài làm để cứ tồn tại mãi, và là điều mà Ngài đặc biệt quan tâm chú ý,
là việc ăn bánh và uống chén (rượu nho); “đó chính” là điều mà họ phải
“làm”.
Và ông kết luận: “Do đó, chúng ta phải đặt nền móng chắc chắn cho ý nghĩa
của buổi lễ của chúng ta trên việc ăn uống này và lời lý giải mà Chúa Giê-xu
đã đặt trên chúng; còn nhấn mạnh trên những việc khác dường như chúng
cũng quan trọng tương đương, là quan niệm sai lầm về ý nghĩa và chủ đích
của việc đã được thực hiện” (tt.90-91).
Vấn đề tối quan trọng là: Phải chăng Chúa chúng ta nêu riêng ra chuyện ăn
bánh và uống rượu (nho) để đặc biệt nhấn mạnh vào đó? Phải chăng Ngài
chỉ dặn dò các môn đệ chỉ phải làm độc có chuyện đó mà thôi? Nếu là như
thế, thì tại sao nghi lễ ấy lại được mọi người biết ngay từ những ngày đầu
tiên với cái tên là “lễ bẻ bánh”? Xin hãy để cho P.T.Forsyth trả lời. Ông nói:
“Vấn đề chính xác về Bữa Tiệc Tối của Chúa, ấy là phần ý nghĩa biểu tượng
không nằm trong các yếu tố mà là trong hành động, toàn thể hành động ấy,
nghĩa là cả lời nói lẫn việc làm... Chính hành động mới có ý nghĩa biểu
tượng, chính việc bẻ ra chứ không phải là bánh, việc đổ ra chứ không phải là
rượu (nho) (The Church and the Sacraments, p.234). “Trong nghi lễ này có
ba điểm tập trung đáng lưu ý - các yếu tố hành động của Ngài, hành động
của họ. Nhưng điểm trội hơn cả không phải là các yếu tố mà là hành động.
Và chính hành động của Ngài, chứ không phải của họ, mới là phần tiền
cảnh. Ngài làm một việc là ban cho; họ cũng làm một việc là nhận lấy”
(Sđd., tr.248).
Nếu có ai phản đối rằng quan niệm kịch trường về thánh lễ này mở cửa cho
điều đã được gọi khá phổ biến (tuy rất chính xác), là cái gọi là “nghi lễ chủ
nghĩa”, thì câu trả lời sẽ là nó uống có tính cách Kháng cách đến tận phần
cốt lõi. Chính vì Giáo hội Kháng cách cổ điển nhấn mạnh việc phải coi trọng
Tân ước mà nó từ chối không chịu xem Bữa Tiệc Tối của Chúa chỉ hoàn
toàn là trong các yếu tố hiến tế mà thôi; và chính việc không chịu dành
quyền ưu tiên cho hành động của Bữa Tiệc Tối mà Forsyth gọi là chiếc chân
què của Anh quốc giáo (Sđd., tr.234. Chú thích I). E.R.Micklem thì vạch rõ
lập trường cổ điển của Phái Không theo Quốc giáo (Non-conformist) khi
ông viết: “Chưa nêu ra việc chắc phải có sự bất đồng nhất tuyệt đối hoặc là
trong phần cấu trúc hoặc là trong ngôn ngữ của buổi lễ, chúng ta có thể
khẳng định chắc chắn rằng đã có nhiều động phải làm khác nhau mà vị mục
sư chủ trì cảm thấy mình được tự do bỏ bớt, và hơn nữa, là các hành động đó
quyết định một phần lớn cho cách cấu trúc của buổi lễ nếu người ta chẳng
tôn trọng chút gì tính cách thống nhất của vở kịch. Chúng vốn thuộc về các ý
nghĩa thiết yếu của nghi lễ này” (Sđd., tr.259).
Trong hành động của Bữa Tiệc Tối của Chúa, có bốn hành vi trong đó Hội
thánh đang thờ phượng nhớ lại các hành vi của Chúa Cứu Thế Phòng cao.
1. Lễ Dâng hiến (Offertory) trong đó các của dâng, mà nhất là các yếu tố
bánh và rượu (nho) được trình bày tại Bàn Tiệc Thánh tương ứng với hành
vi thứ nhất của Chúa chúng ta: “Ngài cầm lấy bánh” . Chẳng có phần nào
khác trong Tiệc thánh từng bị thay đổi nhiều cho bằng phần này. Nó nguyên
là phần trang trọng dâng lên các của lễ lạc ý của tín đồ, không phải bằng tiền
bạc nhưng bằng hiện vật các sản vật của đất, biểu tượng của công lao của họ
và phúc lành của Thượng Đế - làm biểu tượng cho việc họ tự hiến thân và
cung hiến tất cả tài sản của họ cho công việc của Thượng Đế ("Ẩn bên dưới
tập quán này, là quan niệm về Tiệc thánh là lễ tạ ơn và dâng lễ vật của Hội
thánh vì các phúc lành của Công trình sáng tạo và Cứu chuộc. Các lễ vật của
đất, được cứu chuộc do chúng được sử dụng theo cách nhìn mới mẻ của Cơ-
đốc nhân, được dâng lên làm các trái đầu mùa cho Thượng Đế như một hành
động để tỏ lòng tôn kính và công nhận quyền cai trị của Ngài, và của sự kiện
tất cả những gì chúng ta có đều từ Ngài mà đến - J.H.Srawlaey, “The Holy
Communion Service” trong Liturgy and Worship, tr.318). Như Gore nhận
xét: “Các giáo luật nguyên thuỷ gợi ý rằng một Tiệc thánh Cơ-đốc giáo
trong thời kỳ đầu tiên chắc thường giống như một lễ cảm tạ về mùa gặt hiện
đại (C.Gore, The Body of Christ, p.172). Từ các lễ vật đó của hội chúng,
được dâng lên tại Bàn Tiệc thánh, một số bánh và rượu (nho) vừa đủ được vị
mục sư biệt riêng để cử hành thánh lễ này; phần còn lại của các lễ vật được
ban cho những người nghèo. “Chỉ về sau này, hành động dâng hiến mới
được tập trung vào bài cầu nguyện và hướng vào các yếu tố”
(D.E.W.Harrison, The Book of Common Prayer, p.80).
Khi cùng với thời gian, việc dâng tiền bạc thay thế cho các của dâng bằng
hiện vật, mối liên hệ nguyên thuỷ của dâng của các tín đồ với bánh và rượu
(nho) đã bị che mờ. Tuy nhiên, trong Đông Giáo hội, việc trình dâg các yếu
tố của tiệc thánh trở thành hành động nghi lễ chủ yếu của buổi lễ, tức là “Lễ
Tiến Nhập Lớn” (The Great Entrance). Sau phần chuẩn bị kỹ lưỡng Bàn
Tiệc Thánh trong ngôi nhà nguyện bên cạnh (xem trang 17), các yếu tố được
mang đi trong một đám rước trang trọng từ cửa Bắc của tấm màn che nơi
thánh (Ikonotasis) xuống trung tâm nhà thờ, rồi mang trở lui qua Cửa Vua để
đưa vào nơi thánh, và được đặt trên chiếc Bàn thánh để làm llễ hiến tế.
Trong Tây Giáo hội thì diễn trình ấy lại bị đảo ngược, hành động đó đã được
giản dị hoá. Lễ dâng hiến (Offertory) trong Lễ Mi-sa (Lễ Dâng hiến Nhỏ
hơn - The Lesser Oblation) - theo ông Phillips nói - trở thành một chiếc
bóng của “cái ta” cổ xưa đầy ấn tượng của nó. “Của dâng của tín đồ đã
không còn nữa: tất cả những gì tồn tại chỉ là việc mang chiếc đĩa đựng bánh
thánh, chiếc chén đựng các yếu tố do các chấp sự đưa đến cho vị linh mục,
để vị này đặt chúng lên bàn thờ (C.S.Phillips, The Background of the Prayer
Book, p.113). Điều còn lại như những thành tích có ý nghĩa hồi nguyên
thuỷ, là Bài Thi thiên dâng hiến (the Offertory Psalm) vốn được hát lên
trong lúc các tín đồ dâng lễ vật, và bài cầu nguyện tuỳ cơ hội “bí mật” (The
“Sacret” collect), tức là bài:
Ôi lạy Chúa, xin hãy lắng nghe những lời cầu nguyện của chúng con và ban
ân phúc Ngài nhận các lễ vật này của các tôi trai tớ gái Ngài: những gì mà
nhiều cá nhân đã dâng lên để tôn vinh danh Ngài, nguyền xin tất cả đều có
giá trị cho sự cứu rỗi (Bài “Bí mật” dành cho Chúa nhật thứ năm sau lễ Ngũ
tuần. Xem A.G.Hebert, Litengy and Society p.77, được D.E.W.Harrison
trích dẫn trong Sđd., tr.80).
Tuy các thành tích ấy đã biến mất trong các nghi lễ vào thời Cải chánh, ngôn
ngữ sinh tế kết hợp với lễ Dâng hiến Lớn của lễ Mi-sa (việc dâng lên các
yếu tố hiến tế như thân thể và máu Chúa Cứu Thế) vẫn còn được dùng trong
lễ Dâng hiến Nhỏ - là tên đã được dùng để gọi phần Dâng hiến (Offertory).
Do đó mà các nhà Cải chánh đã cất đi những bài cầu nguyện và bài hát khỏi
lễ Dâng hiến, và như thế là thu nhỏ nó lại để chỉ còn là một hành động đặt
bánh và rượu lên Bàn Tiệc thánh mà thôi. Trong Sách Cầu Nguyện Phổ cập,
lễ Dâng hiến bắt đầu bằng mấy câu Kinh điển nhấn mạnh bổn phận phải hứa
dâng cả phần cấp dưỡng cho chức vụ (oblations) lẫn phần để cứu tế người
nghèo (của bố thí). Sau việc thu góp các “của bố thí” và “phần cấp dưỡng
cho chức vụ” ("Hồi năm 1549, những người thờ phượng đến dự lễ hát và tự
mình dâng hiến cho hộp tiền dành cho người nghèo, và ở một số nơi, còn có
một chiếc hộp thứ hai để nhận của dâng để cấp dưỡng cho chức vụ. Do đó,
về mặt lịch sử mà nói, thì từ ngữ oblation trong Sách Cầu Ngyuện của người
Anh vốn khác với người Tô-cách-lan, là không hề đề cập bánh và rượu như
cách ám chỉ trước kia” D.E.W.Harrison, Sđd., tr.81)., chúng phải được kính
cẩn dâng lên và đặt trên Bàn Tiệc thánh cùng với bánh và rượu. Chấp sự
trưởng Harrison vạch rõ rằng “các tiết mục ở phần cuối cua quyển sách năm
1549 dạy rằng các gia đình trong giáo xứ sẽ luân phiên nhau để dâng vào
mỗi Chúa nhật trong giờ Dâng hiến, số tiền đúng với giá trị của ổ bánh
thánh, và cũng phải phái một thành viên hay người đại diện đến để tiếp nhận
tiệc thánh... Lời dạy này hiến mất năm 1552, khi vị linh mục phụ tá và
những người bảo vệ nhà thờ hải lo cung cấp bánh và rượu rồi thanh toán với
giáo xứ sau (Sđd., tr.80). Của dâng nguyên thuỷ của tín đồ được bảo tồn tại
Brasemose College Chapel, Oxford là nơi mà bánh và rượu đã được hai
thành viên sáng lập dâng lên nhân lễ Dâng hiến (Xem J.H.Strawley “The
Holy Communion Service” trong Litengy and Worship, p.319, note 1); và
Chấp sự trưởng Harrison chủ trương rất đúng rằng “về mặt giáo lý thì chẳng
có lý do gì cho thấy tại sao mối liên hệ cổ xưa của từ ngữ ấy lại không được
phục hồi, và bánh với rượu, một lần nữa lại là của dâng của tín đồ, được
những người đại diện cho hội chúng dâng lên tại Bàn Tiệc Thánh” (Sđd.,
tr.81).
Trong nghi thức Tô-cách-len, Bài Hát Dâng hiến tái xuất hiện như một Thi
thiên theo vận luật, một Bản dịch Diễn ý hay Thánh ca được hát lên trong
khi các yếu tố còn được che kín được vị mục sư và các trưởng lão đưa vào
nhà thờ và đặt lên bàn Tiệc Thánh. David Cairms gợi ý rằng tập tục Tô-
cách-lan này có thể là một di tích của “Lễ Hiến Nhập Lớn” vốn được truyề
thống Gallic (Công giáo La-mã Pháp) truyền lại cho Giáo hội Celtic và vẫn
tồn tại sau thời Cải chánh (Xem “The Holy Communion in the Presbyterian
Church” trong The Holy Communion: A Symposium ed. Hugh Martin p.80).
Tuy niên điều dường như có lý hơn là nó vốn bắt nguồn từ tập quán của
Geneva (Xem W.D.Maxwell, An outline of Christian Worship, p.139, note
2). Trong số các tín đồ Thanh giáo thì các tín đồ Trưởng lão cũng theo cùng
một tập quán ấy nhưng các tín đồ Độc lập và Báp-tít thì đặt sẵn bánh và
rượu trên Bàn Tiệc thánh trước khi buổi lễ bắt đầu. Các yếu tố vẫn được đậy
kín suốt bài “tụng niệm về Lời Chúa”, rồi được mở nắp đậy và dâng lên khi
bắt đầu “bài tụng niệm tại Phòng cao”. Đây vẫn còn là cách làm của các tín
đồ Tổng giáo hội và Báp-tít. Nó cũng được các tín đồ Giám lý noi theo, là
những người mà nói chung, vốn sử dụng cách sửa đổi phần nghi thức theo
Anh quốc giáo của John Wesley.
Mối liên hệ giữa việc dâng bánh và rượu lên với việc dâng tiền của các tín
đồ trong Giáo hội tự do thường bị việc cử hành Tiệc thánh với tập tục lấy
tiền dâng trước Bài Giảng, che mờ. Trong một lễ chiều tối khi cấu trúc của
buổi lễ ấy được áp dụng, thì chẳng có gì để phản đối cả. Nhưng trong lễ Tiệc
Thánh, những đồng tiền trong địa thu tiền tiêu biểu cho các của dâng bằng
hiện vât, từ đó bánh và rượu cho tiệc thánh được lấy ra và được vị mục sư
trong Hội thánh nguyên thuỷ biệt riêng ra. Do đó, việc thu góp của Dâng
phải được kết hợp chặt chẽ tối đa với việc dâng các yếu tố của thánh lễ lên,
cho dù phần hình thức của nó có là gì đi chăng nữa. Điều đó có nghĩa là vị
trí phải lẽ của nó là sau Bài Giảng và lúc bắt đầu “bài tụng niệm tại Phòng
Cao” Các của dâng phải được dâng lên tại Bàn Tiệc Thánh và được vị mục
sư nhận và đặt trên Bàn Tiệc Thánh. Sau đó, vị ấy cũng phải đặt các yếu tố
lên Bàn (Tiệc thánh) nếu chúng cần phải được đưa vào trong nhà thờ lúc ấy
(như tập quán của các tín đồ Trưởng lão), hay đậy chúng lại nếu chúng đã ở
trên Bàn Tiệc Thánh rồi (như thói quen của các tín đồ Báp-tít, Tổng giáo hội
và Giám lý). Làm như thế, tính cách thống nhất giữa Lễ dâng hiến với tự
cách là phần đầu tiên của hành động của Bữa Tiệc Tối sẽ được duy trì và bảo
tồn.
2. Bài Cầu Nguyện cảm tạ và HIếnt ế vốn bắt nguồn từ hành động thứ hai
của Chúa chúng ta tại Phòng cao. trong nghi thức theo Giáo hội Giám lý
Anh quốc, vị mục sư nói: “Chúng ta đọc thấy trong đêm Chúa chúng ta bị
phản nộp, Ngài lấy bánh,v à trước khi bẻ nó ra, Ngài đã dâng lời tạ ân
Thượng Đế. Xin chúng ta hạy nhân Danh Ngài và theo gương Ngài mà dâng
lên lời tạ ân Thượng Đế” (Xem sách The Directory for Public Worship
(1921) và The Presbyterian Service Book (1948). Chính từ bài cầu nguyện
này, bài encharistia mà buổi lễ ấy có được cái tên cổ xưa của nó là Eucharist
(Tên này xuất hiện trong sách Didache và sách Apology của Justin Martyr,
cả hai đều thuộc tiền bán thế kỷ thứ hai). Từ một niên đại rất xa xưa, nó
khẳng định một hình thức phân biệt vì đã cố gắng biểu hiện tất cả những gì
hàm ngụ trong hành động cảm tạ của chính Chúa chúng ta. Những Bài Cầu
Nguyện Tiệc thánh của thời cuối thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ tư vốn đã
có một cấu trúc và nội dung phổ biến như thế, tuy thời bấy giờ vẫn chưa có
những hình thức nào cố định cả. Thoạt tiên, vĩ mục sư chào mừng các tín đồ
bằng lời chào thông thường trong Cơ-đốc giáo: “Cầu Chúa ở với anh em”
(Hoặc có thể thay đổi như sau: “Cầu xin Chúa ban sự bình an cho anh em”
hay “Nguyện ân phúc của Chúa Cứu Thế Giê-xu, tình yêu thương của Đức
Chúa Cha, và sự tương thông tương giao của Đức Thánh Linh, ở với toàn
thể anh em"); và họ đáp lại: “Và với tâm linh ông”. Rồi ông bảo họ: “Xin
anh em nâng cao tấm lòng mình lên”; và họ đáp lại: “Chúng tôi nâng cao
chúng lên cho Chúa”; tiếp theo đó là lời khuyến giục: “Xin chúng ta hãy
dâng lời cám ơn Chúa”, và các tín đồ đồng ý: “Chúng tôi xin chấp nhận, vì
làm như thế là phải lẽ” (Lần đầu tiên, cả Lời chào lẫn câu Sursumcorda đều
được đề cập trong phần rất sớm của thế kỷ thứ ba, là lúc dường như nó đã
được lập vững để thông dụng trong Cơ-đốc giáo. “Xin chúng ta hãy dâng lời
tạ ơn...” là một hình thức của Do-thái giáo). Sau đó, vị mục sư nói: “Thượng
Đế là Đấng Tạo Hoá thật đáng ca tụng trong mọi sự hữu hình và vô hình;
công trình sáng tạo đang đi qua như trong một cuộc diễu hành với một bản
anh hùng ca trước mắt những người đang thờ phượng; và tiếp theo là truyện
tích về sự cứu rỗi lớn lao mà Thượng Đế đã tạo ra giữa nhiều dấu lạ và phép
lạ cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài. Và như tiếng vọng của nhiều tiếng ca ngợi tán
tụng và cảm tạ này, có các âm thanh vang ra từ môi miệng của hội chúng
Bài ca của các Chê-ru-bin bài Thánh thay, Thánh thay, Thánh thay mà Ê-sai
đã nghe trong khải tượng của mình. Nhưng còn một công trình cứu chuộc
càng vĩ đại hơn nữa mà Thượng Đế đã thực hiện chỗ nhân loại tội lỗi, là
Ngài đã sai Con Ngài đến, để hễ ai tin Ngài thì sẽ được sự sống vĩnh hằng.
Vậy là giờ đây, mọi người đang thấy trải ra trước mặt mình cả một vở kịch
về sự cứu chuộc từ lúc Cứu Chúa của thế gian này giáng sinh cho đến khi
Ngài thăng thiên và Tái lâm” (F.Heiler, The Spirit of Worship, pp.4,41).
Bài cầu nguyện đạt đến một tiêu điểm cháy bỏng trong việc kỷ niệm Sự
Thương Khó (anamnẽsis), tiếp theo là một bài khẩn cầu Đức Thánh Linh
(epiklẽsis) chúc phúc cho các của dâng là bánh và rượu, để chúng trở thành
sự tương thông tương giao của thân và máu Chúa Cứu Thế. Và vì “trong
những gì mà Hội thánh dâng lên, Hội thánh cũng tự dâng mình lên cho
Thượng Đế” (Augustine, De Civitate Dei, x.6; t/c Epist 272). Cùng với các
của dâng của mình các Cơ-đốc nhân với tư cách là Thân thể của Chúa Cứu
Thế cũng tự dâng mình lên (Oblation). Tiếp theo là Bài Cầu Thay Lớn cho
mọi thứ sự việc và tình hình của con người, và sau đó, vị mục sư và các tín
đồ cùng đọc Bài Cầu Nguyện của Chúa.
Khi đến cuối thế kỷ thứ tư, các hình thức cố định đã trở thành bình thường,
họ chỉ đơn giản kết tinh hoá cac yếu tố đã được xác định rõ ràng vào phần
nghi thức có thể linh động thay đổi này. Phần đối thoại cổ xưa giữa vị mục
sư và các tín đồ - Lời chào và phần Sursumcorda - cung cấp một phần mở
đầu rất thích hợp cho Bài Cầu Nguyện hiến tế lớn. Lời cảm tạ về Công trình
sáng tạo và quyền năng Thần hựu được kết tinh trong Bài Tựa (Preface) cố
định trong Đông Giáo hội nhưng có thay đổi tuỳ theo mùa của Năm Cơ-đốc
giáo trong Tây Giáo hội. Tiếp theo đó là Bài thánh ca của các Chê-ru-bin,
bài Sanctus mà các tín đồ cùng hát theo (Bài Sanctus được đề cập trong bức
thư của Clement ở Rô-ma gởi người Cổ-linh (96 SC); xem Epistle xxxiv. Về
sau, tiếp theo nó thường là bài Benedictus qui venit: “Đáng chúc phúc thay
cho Đấng nhân danh Đức Giê-hô-va mà đến. Hô-sa-na ở trong nơi cao
nhất"), dẫn tới việc kỷ niệm đời sống, sự chết và sự sống lại của Chúa chúng
ta bài Anamnesis, và cảm tạ vì sự cứu chuộc. Tiếp đến là lời kêu cầu Đức
Thánh Linh, bài Epiclesis, và phần Dâng hiến (Oblation) là chính những
người thờ phượng dâng các của lễ, tập thể hoặc cá nhân, với của lễ là lời ca
ngợi tán tụng. Thường thường thì tiếp theo đó là bài cầu thay cho người sống
và kẻ chết, rồi một bài tán ca (doxology) và cuối cùng là Bài Cầu nguyện
của Chúa lên đỉnh điểm.
Hình thức cổ điển này của Lễ Cầu Nguyện Tiệc thánh vẫn được duy trì với
một vài thay đổi trong Đông Giáo hội; còn bên Tây giáo hội, nó đã bị cắt
xén và làm cho biến dạng đi trong Giáo luật La-mã, như một phần tóm tắt
nội dung cuối cùng của nó cho thấy thật rõ ràng. Sau bài Tựa (Vere dignum,
bài Sanctus và bài Benedictus qui venit thì cách bắt đầu đúng theo Giáo luật
(Canon) là một bài cầu nguyện cho việc tiếp nhận các lễ vật và của dâng (te
igitur) tiếp theo là bài Cầu Thay (Menmento Domine, Communicantes và
Hanc igitur). Rồi tới một lời kêu cầu xin chúc phúc cho các yếu tố (Quam
oblationem) (Đây không phải là một bài Epiclesis; trong đó không có việc
kêu cầu Đức Thánh Linh), phần đọc thuộc lòng Lời của Đinh chế (The
Words of Institution), một bài Anamnesis (Unde et memores), và lời cầu xin
cho những gì đã dâng lên sẽ được đổ đầy mọi phúc lành và ân phúc thiên
đàng (Surpplicete). Giáo luật kết thúc bằng lời cầu thay cho và việc kỷ niệm
kẻ chết (Menento etiam và Nobisquoque) và một tán ca.
Lễ tiệc thánh nguyên thủy (Eucharist) đã bị bóp méo thành phần dâng sinh tế
trong lễ Mi-sa trung cổ mà hậu quả, như Maxwell nói, Giáo luật La-mã chỉ
là một phần bị đặt sai chỗ và là một mảnh vụn mà thôi (Xem An Outline of
Christian Worship, pp.59ff). tại tâm điểm của nó vẫn còn có Phúc âm.
Nhưng phần chủ động đi bước trước của Thượng Đế đã bị phần dâng hiến
của con người che mờ; buổi lễ chuyển từ con người đến Thượng Đế , chứ
không phải là từ Thượng Đế đến con người. Do đó, điểm nhấn mạnh được
chuyển từ hành động sang cho các yếu tố, và lễ Mi-sa đạt truyệt đỉnh không
phải trong sự tương thông tương giao mà trong phép lạ chuyển hoá thánh thể
(transsubstantiation), tiếp theo là phần dâng hiến và tôn thờ bánh và rượu đã
được hiến tế. Việc bóp mép và cắt xén Bài Cầu Nguyện Hiến tế lớn là hậu
quả trực tiếp của việc làm sai lệch giáo lý trong Tây Giáo hội Trung cổ. “Bởi
vì giáo lý về Tiệc thánh của nó đã thôi không còn năng động nữa; bởi vì nói
theo nghĩa hẹp thì sự mặc khải không còn ca8n thiết nữa, điểm nhấn mạnh
đầu tiên trên công tác của Đức Thánh Linh đã bị mất đi. Bài Epiclesis đã
biến mất khỏi bài cầu nguyện hiến tế, và thay vào chỗ của nó là một bài cầu
nguyện, chắc chắn là đã có trước cả thời Trung cổ, khiến cho các yếu tố có
thể nhờ tay vị thiên sứ thánh của Thượng Đế mà được kết hợp với sinh tế
của Bàn Thờ trên trời” (D.E.W.Harrison, Sđd., tt.44-45. T/c F.Heiler, The
Spirit of Worsip, tr.65: “Bằng việc lấy lời của định chế làm lời lẽ trung tâm
cho cả lễ Mi-sa, bài cầu nguyện cảm tạ lớn... bị tước đoạt hết phần ý nghĩa
nổi bật của nó... và bài Epiklesis... đã bị chiếm mất chỗ).
Khi khảo xét các hậu quả của vấn đề tụng niệm trong thời gia có cuộc cải
chánh, hai sự việc phải nảy sinh trong tâm trí. Một làm, đối với các nhà Cải
chánh quan điểm trung cổ về lễ Mi-sa như một việc lặp lại sinh tế của Chúa
Cứu Thế, là điều đáng ghê tởm lớn nhất. Hai là, mặc dù thế, bản thân các vị
vẫn thừa hưởng phần di sản tụng niệm của Tây giáo hội. Lẽ dĩ nhiên là trừ
Cranner ra “việc họ quen biết các hình thức tụng niệm dường như đã bị giới
hạn vào số các hình thức đường đại của Giáo hội La-mã; dường như họ hầu
như chẳng biết gì cả về sự thờ phượng của người Công giáo bên Pháp
(Gallican) và bên phương Tây; còn sự hiểu biết của họ dù là về sự thờ
phượng nguyên thuỷ mà họ muốn vãn hồi, vốn rất thô thiển và không đầy
đủ” (W.D.Maxwell, Sđd., tr.72-73). Cho nên trong khi Giáo luật La-mã bị
họ thẳng tay bài trừ các công trình tụng niệm sớm hơn của chính họ phần lớn
chỉ có tính cách tiêu cực, và như Maxwell nói, “họ chỉ đơn giản bỏ đi những
gì họ cho là dư thừa hoặc không thể chung sống với lời truyền dạy mới mà
thôi”.
Với những người thừa kế tinh thần của nhà Cải chánh thì nhiệm vụ còn lại
vẫn là cung cấp những hình thức rộng rãi đủ và sâu nhiệm đủ để con người
toàn diện đến được với Thượng Đế bằng sự tôn thờ, ca tụng và cầu nguyện,
và để cho ân phúc Thượng Đế đến được với loài người mà không bị ngăn
chận hoặc gặp trở ngại. Muốn thực hiện việc này đòi hỏi phải tận dụng cả
cái mới lận cái cũ của kho tàng Cơ-đốc giáo (Như trên tr.73).
Luther, người từng mô tả Giáo luật là việc chắp vá rời rạc và là một điều
đáng ghê tởm, trong tác phẩm Formula Missae năm 1523 của ông, đã bỏ đi
tất cả ngoại trừ bài Sursum corda, bài Tựa, bài Sanctus, và bài Denedictus
qui venit, và Lời của Định chế; trong khi trong uqyển Dentsche Messe năm
1526 của ông, việc hiến tế các yếu tố không phải là bằng lời cầu nguyện chi
cả, mà là bằng một công thức phần đọc thuộc lòng Lời của Định chế chỉ là
một trích đoạn của Giáo luật cổ xưa phải giữ lại. Calvin đặt quyển sách về
buổi nhóm thờ phượng nhan đề La Forme des Prièrè (Hình thức của những
bài cầu nguyện) của ông trên nền tảng là nghi thức của Bucer ở Strasbourg),
vốn noi theo phần bố cục chủ yếu của Giáo luật La-mã, và bài Cầu nguyện
hiến tế của ông vốn cũng từ đó mà ra. Tuy nhiên, những Bài cầu thay thì
được tách rời khỏi Giáo luật và đặt sau khi thu góp của bố thí. Tiếp sau bài
Anamnesis là một bài cầu nguyện xin được tiếp nhận bởi đức tin vào thân và
máu thật của Chúa Cứu Thế, và để có được một đời sống thánh khiết. Đã
không có bài Syrsum corda. Bài Tựa hay bài Sanctus, và Lời của Định chế
được đọc lên như một bảo đảm tiếp sau Bài Cầu Nguyện hiến tế. Quyển The
Forme of Prayers của John Knox theo sát Calvin nhưng không phải như một
kẻ nô lệ. Bài Cầu nguyện hiến tế của ông gồm có phần Tôn thờ dẫn tới phần
cảm tạ về công trình sáng tạo và cứu chuộc, một bài Anamnesis và một tán
ca.
Các nghi thức thời cải chánh này cùng có chung một nhược điểm: tất cả đều
tiếp tục kéo dài sự thiếu sót của (Giáo hội) La-mã về một bài Epiclesis, vốn
là tâm điểm của hình thức bài cầu nguyện hiến tế cổ điển. Chỉ có một ngoại
lệ là Buổi Nhóm Tiệc thánh của Cranmer năm 1549 trong quyển sách Cầu
nguyện. Cranmer vốn là một trong những học giả về vấn đề tụng niệm tài ba
nhất trong thời của ông, từng quen thuộc với các truyền thống thờ phượng
của Đông cũng như Tây phương. Ông vừa giữ lại tối đa trong phạm vi có thể
được phần nghi thức Trung cổ, vừa vãn hồi trật tự cho Giáo luật La-mã đã bị
đặt sai chộ, rồi đưa vào đó một bài Epiclesis đặt nền trên Bài tụng niệm Hi-
lạp của St.Basil. Thật là chẳng may khi phần này lại bị loại ra khỏi Sách Cầu
nguyện năm 1552 và chẳng bao giờ được phục hồi địa vị trong những lần tái
bản sau đó; do đó mà từ ấy đến nay, bài cầu nguyện hiến tế của Anh quốc
giáo vẫn giữ nguyên điểm thiếu sót ấy (Bài annamnesis cũng đã bị loại năm
1552, càng khiến cho phần nghi thức Anh quốc giáo nghèo nàn thêm. Hai
bài Anamnesis và Epiclesis được phục hồi trong lần xét duyệt lại được đề
nghị năm 1928).
Chúng ta đã phải mắc nợ chính (Giáo hội) Tô-cách-lan trong việc phục hồi
địa vị cho tính cách toàn diện của các nghi thức Cải chánh. Tuy bài Epiclesis
không thấy cứ trong Bài Cầu Nguyện Hiến tế của Knox, nó luôn luôn có một
chỗ đứng trong các nghi lễ Celtic cổ (Các nghi lễ này thuộc về gia đình
Celtic, trong đó bài Epiclesis đã được giữ lại), và Maxwell chủ trương rằng
“do nhiều cơ sở để tin rằng việc sử dụng nó đã chẳng bao giờ hoàn toàn chết
đi tại Tô-cách-lan. Dù sao thì việc thiếu mất một bài epiclesis nói chung đã
sớm được nhận thấy, và tuy có một bài chỉ xuất hiện trong các văn bản khá
muộn màng về sau này, đã có chứng cứ hiển nhiên rằng một bài epiclesis đã
được đưa ra tương đối sớm... một bài epiclesis đã xuất hiện trong những
hình thức Tô-cách-lan nhất từ bài “Tụng niệm của Land” (Laud's Liturgy) và
Sách Hướng Dẫn Westminster (The Westminster Directory) cho đến nay”
(Sđd., tt.124-125).
Như chúng ta đã thấy, sự thờ phượng của các tín đồ Thanh giáo Anh quốc
noi theo mẫu mực của Geneva. và sách The Forme of Prayers của John
Knox đã được sử dụng rộng rãi, cho đến khi sách hướng dẫn Westminster ra
đời năm 1644. Do đó mà Bài Cầu Nguyện hiến tế trong nghi thức của (Giáo
hội) Trưởng lão Anh quốc về đại thể, đã chẳng khác chi với cách dùng ở Tô-
cách-lan. Tuy nhiên, các tín đồ Độc-lập lại noi theo nhóm Brownist nguyên
thuỷ, nên đã có việc tách rời từng yếu tố một (Xem Baillie, A Dissuasive
tr.121. “Họ cũng học của nóm Brownist một lễ hiến tế đôi và phân biệt nhau,
mỗi lần cho một yếu tố riêng biệt). Trước hết, bánh được chúc phúc rồi p